Monday, October 31, 2011

5pm



Nhìn thấy cái đẹp là một chuyện mà ghi lại được cái đẹp là một chuyện khác.

Như tôi thấy việc các chú tiểu trong chùa dạy nhau thỉnh chuông lúc 5h chiều hàng ngày là một việc rất đẹp; nhưng tôi không sao ghi lại được cái đẹp ấy.

Sunday, October 30, 2011

Am I right, or AM I right?

Gần trưa, tôi kéo hành lý xuống dưới sảnh khách sạn để check out. Một người tiếp tân trẻ, da trắng, niềm nở:
- Mời cô ra đây để tôi làm thủ tục cho cô.

Tôi nói số phòng, anh ta bảo tôi đưa thẻ tín dụng; và mấy phút sau thì in hóa đơn ra. Trên hóa đơn là gần 700 đô-la cho 3 tối.
- Xin lỗi anh, có một lỗi ở đây. Tôi đã trả tiền mặt cho cả hai bữa này rồi.
- Ồ, trên hệ thống nói là cô tính bữa ăn vào tiền phòng.
- Không, tôi đã trả tiền mặt tất cả các bữa. Xin anh kiểm tra lại.
- Để tôi đi kiểm tra hóa đơn.

Anh ta đi ra đằng sau một lát rồi quay lại với mấy cái hóa đơn; trên mỗi hóa đơn đều có chữ viết của tôi - ghi tên, số phòng, số tiền và chữ ký.
- Đây - anh ta có vẻ rất đắc thắng và thậm chí có phần kết án - Rõ ràng trên các hóa đơn này, cô đã ghi tên và số phòng, tức là cô cho phép chúng tôi charge tiền vào phòng và vào thẻ tín dụng mà cô cung cấp.
- Không, trên hóa đơn này không có chỗ nào ghi như vậy. Tôi ghi tên và số phòng ở đây chỉ để chứng nhận rằng thức ăn đã được mang lên cho tôi chứ không phải mang sang phòng khác, tôi đã nhận được thức ăn ở phòng này, và tôi chứng nhận số tiền là như thế này và đã trả. Tôi nghĩ tôi làm vậy để tránh cho các anh và người hầu phòng gặp rắc rối nếu như 10 phút sau tôi lại gọi điện nói rằng thức ăn chưa được mang lên. Trên hóa đơn này không hề có chỗ nào nói đến việc trả tiền vào phòng và vào thẻ tín dụng mà các anh lưu lại. Nếu tôi trả tiền mặt thì khách sạn có trách nhiệm phải ghi rõ như vậy.
- Bình thường, theo quy định của khách sạn thì khi cô ghi tên và số phòng ở đây tức là cô đồng ý cho chúng tôi charge vào phòng của cô.
- Được rồi, cứ cho bình thường là như vậy; nhưng trong trường hợp bất bình thường như thế này, khi tôi đã đưa tiền mặt cho người phục vụ, thì tôi muốn biết khách sạn sẽ xử lý như thế nào.
- Cô biết đấy, theo quy định của khách sạn, thì cô đã đồng ý charge vào phòng.
- Trên hóa đơn này không có một dòng nào nói rằng bằng vào việc ghi tên và ghi số phòng lên đây, tôi đồng ý cho khách sạn charge vào tiền phòng của tôi cả.

Anh ta lặp đi lặp lại câu này "theo quy định của khách sạn"... Bạn rất khó nói chuyện với "quy định của khách sạn", cũng như bạn rất khó chiến đấu với "thủ tục" hoặc "văn hóa". Nhưng cái chính nhất là anh ta có một vẻ mặt khăng khăng và một giọng nói ra ý nghi ngờ rõ rệt. Lúc ấy, tôi mặc quần áo xềnh xoàng trong tư thế chuẩn bị ra sân bay để bay một chuyến dài từ bờ Đông về lại bờ Tây. Tôi đoán anh ta nghĩ tôi là một cô sinh viên đại học nào đó, lại người châu Á, nên có thể gian lận tiền. Anh ta có cái vẻ khăng khăng rằng tôi nhất định đã lợi dụng cái lỗ hổng này để quịt tiền của khách sạn.

Còn tôi lúc đó mới nghĩ lại và nhớ ra, khi tôi viết tên lên giấy, rồi đưa tiền cho người phục vụ, chị ta cứ nhìn tôi cười toe toét rất lâu với vẻ kinh ngạc. Có lẽ chị ta nghĩ đây là tiền tip - mỗi lần gần 30 đô.

Tôi nói:
- Anh cho tôi nói chuyện với người quản lý.
- Tôi chính là người quản lý quầy lễ tân - anh ta nói với vẻ đắc thắng.
- Thế thì tôi yêu cầu được nói chuyện với cấp cao hơn của anh, với người nào quản lý khách sạn này. Trên này có cả tên của người phục vụ, tôi yêu cầu anh mời họ ra đây.
- Được rồi, để tôi đi mời người quản lý.

Anh ta chạy đi đâu đó một lúc rồi quay lại:
- Người quản lý của tôi sẽ tới.

Lúc đó, một người bạn của tôi cũng ở đó. Chúng tôi sẽ làm việc chung một lúc. Tôi nói:
- Cậu ra ghế ngồi chờ tớ một lúc đi. Tớ giải quyết xong việc này sẽ ra.
- Không sao, tớ muốn ở đây xem việc này kết cục thế nào - Bạn tôi nói. Bạn tôi chắc chắn cũng đã nhận ra cái vẻ miệt thị và kết án lộ liễu của anh kia. Bạn tôi cũng người châu Á.

Chúng tôi đứng đó một lúc mà vẫn không thấy ai tới. Anh ta vẫn có cái vẻ nhẫn nại một cách đắc thắng và ngấm ngầm kết án. Tôi lấy ví ra và chìa cho anh ta xem 300 đô-la ở trong ví:
- Tôi chỉ muốn anh biết là trước chuyến đi này, tôi đã rút nhiều tiền mặt vì tôi luôn luôn có thói quen trả tiền mặt cho những bữa ăn trong khách sạn và các chi phí trong lúc đi lại. Tôi cũng muốn anh biết rằng tôi là giáo sư đại học đang dự hội thảo ở khách sạn, tôi không có ý định ăn chặn tiền hay nói dối.

Về lý, điều này lẽ ra không nên có tác động gì nhưng anh chàng lễ tân lập tức biến sắc mặc.
- Ồ không không, tôi không có ý nói cô nói dối; không hiểu tại sao người quản lý của tôi lại lâu thế...
- Các anh có camera hay thiết bị gì trong phòng để kiểm chứng việc này không?
- Không. Xin lỗi đã gây phiền hà cho cô, để tôi gọi điện lại xem.

Anh ta gọi điện thoại đi đâu đó và nghe rất lâu trên điện thoại. Tôi không biết đằng kia là ai và họ nói gì, chỉ thấy anh ta cứ gật gù "I see, I see...". Sau đó, anh ta bỏ máy và nói với tôi:
- Xin lỗi để cô phải chờ, tôi đã nói chuyện với người quản lý; khách sạn sẽ hoàn lại tiền 2 bữa ăn cho cô và chúng tôi sẽ điều tra vụ việc xem thế nào.
- Cảm ơn anh.
- Thế cô có được thoải mái trong 3 ngày ở tại khách sạn không? - anh ta cười.
- Rất thoải mái cho đến lúc check out. Anh làm ơn in lại hóa đơn cho tôi xem.
- Tất nhiên rồi, tôi sẽ in lại ngay đây.

Anh ta gõ lạch cạch một lúc rồi in lại hóa đơn cho tôi xem. Tôi nhìn kỹ hóa đơn.
- Tốt rồi, cảm ơn anh.
- Chúc cô một chuyến đi an toàn. Hy vọng sớm được đón cô trở lại.
- Tôi sẽ còn ngồi ở sảnh làm việc một lúc với bạn tôi. Nếu anh cần hỏi gì thì cứ tới. Đây là danh thiếp của tôi.

Tôi để lại danh thiếp rồi ra sảnh ngồi với bạn tôi một lúc. Chúng tôi đang viết chung mấy bài báo và cả năm chỉ tranh thủ gặp được 1-2 lần ở các kỳ hội thảo như thế này nên phải tranh thủ giải quyết việc. Ngồi làm một lúc, và chính giữa lúc đang tính tính toán toán một mớ số liệu về thanh thiếu niên, một ý nghĩ đột nhiên len vào đầu tôi: giả sử, vì một lỗi trí nhớ kỳ quặc nào đó, tôi quả thật đã không trả tiền mặt và tất cả ký ức của tôi về việc đã trả tiền mặt cho người hầu phòng chỉ là một đoạn lỗi chương trình thì sao? Có thể chị ta sẽ bị đuổi việc?

Vào lúc trước, tôi đã chắc chắn 100% rằng tôi đã trả tiền; trong trí nhớ của tôi rõ ràng có hình ảnh chị ta mang khay vào phòng, hỏi tôi để khay ở đâu, tôi nói chị ta để khay xuống mặt bàn, rồi tôi lấy ví ra, trả tiền thức ăn theo hóa đơn cộng với tiền tip, rồi ký tên lên giấy. Nhưng sau khi khởi lên cái ý nghĩ kia, thì tôi không sao chắc 100% được nữa - cứ như thể toàn bộ các hình ảnh kia chỉ là một tưởng tượng chắp vá từ các vụn ký ức trong những lần ở khách sạn khác nhau, những cái khay thức ăn khác nhau, những người phục vụ mặc đồng phục đen khác nhau, những lần lấy ví khác nhau, những lúc ký tên khác nhau, và những nụ cười toe toét khác nhau.

Và từ lúc đó, tôi không sao xua được ý nghĩ này ra khỏi đầu. Ngay cả khi tôi chắc đến 99% thì điều đó vẫn chẳng có nghĩa gì so với 1% còn lại. Và khi đã không thể chắc chắn về điều gì đó, thì câu hỏi tiếp theo là: bạn sẽ làm gì nếu bạn không chắc chắn mình đã đúng, mình đã công bằng?

Wednesday, October 26, 2011

Phải, trái, đúng, sai

Sách của giáo sư Micheal Sandel (ĐH Harvard), nhóm của anh Hồ Đắc Phương giới thiệu, sẽ ra vào ngày 11-11 trong loạt sách đầu tiên của tủ sách Cánh cửa mở rộng.

“Sandel giải thích các lý thuyết về phải, trái, đúng, sai với sự rõ ràng và gần gũi: những tư tưởng của Aristotle, Jeremy Bentham, Immanuel Kant, John Stuart Mill, Robert Nozick, và John Rawl hiếm khi được giải thích dễ hiểu đến như vậy.” (Báo New York Times)


“Michael Sandel – có lẽ là giáo sư đại học nổi tiếng nhất ở Mỹ - đã mang lại “sự minh bạch về đạo đức cho những lựa chọn mà chúng ta đối mặt với tư cách là những công dân trong xã hội dân chủ”. Ông đã chỉ ra sự chia rẽ chính trị - không phải giữa cánh tả và cánh hữu mà giữa những người nhận ra rằng không có gì quý hơn quyền và lựa chọn cá nhân với những người tin vào một nền chính trị phục vụ lợi ích của số đông” (Bưu điện Washington)

" Quyết liệt, dễ hiểu, và đầy tính nhân văn, cuốn sách này thực sự là một cuốn sách làm thay đổi người đọc” (Publisher Weekly)

“Cứ lâu lâu làng xuất bản lại có một cuốn sách được viết một cách duyên dáng, mạnh mẽ, và hài hước đến nỗi nó khiến chúng ta khao khát muốn tìm thế nào là phải, trái, đúng, sai. Cuốn sách này là cuốn sách như vậy” (Texas Law Review)


Sunday, October 23, 2011

"Về con, cha hát" của Barack Obama


Hồi lâu rồi tôi có nhắc đến việc dịch một cuốn sách mỏng dính cho vui. Xong rồi cũng quên bẵng đi. Mấy tuấn trước cuốn sách đã ra đời: Nó là cuốn truyện tranh thiếu nhi "Về con, cha hát" của tổng thống Mỹ Barack Obama. Cuốn sách chỉ có mấy chục trang, nhiều tranh minh họa, mỗi trang giống một bức thư ngắn gửi hai con gái của tổng thống Obama để vừa bày tỏ tình yêu với các con vừa nhắc các con về 13 người con ưu tú đã làm nên nước Mỹ, cũng là để nói về những phẩm chất nền tảng đã làm nên nước Mỹ.

Sách do NXB Trẻ phát hành, có bán tại các nhà sách của Trẻ, Phương Nam, vv... trên toàn quốc.

Xem thêm thông tin tại đây.

Friday, October 21, 2011

Phải bám rất chặt

Khoảng gần 1 giờ sáng, tôi đang ngủ thì nghe "Chị ơi, chị ơi". Trong lúc mơ màng, tưởng là mình đang mơ thấy người gọi. Nhưng rồi tôi cũng mở mắt ra.
- Chị ơi, chồng em bị làm sao ý, có khi phải gọi cấp cứu.

Cô bé hàng xóm người Việt của tôi không nói tiếng Anh. Chồng N người châu Á, đang học tiếng Anh. Họ có hai đứa con nhỏ - một lên 3 tuổi, một mới 5 tháng. Chúng tôi sống cùng tòa nhà; thân nhau như chị em ruột. Cả hai chúng tôi đều mới tới San Jose được một năm nay - tôi từ Chicago, N từ châu Á.

Trên sàn nhà, G đang ngồi bệt, mặt tái xanh, mồ hôi toát ra, hai tay ôm lấy một bàn chân. V, con bé 5 tháng tuổi đang nằm ngửa trên sàn, còn M, con bé 3 tuổi thì quỳ cạnh bố, cả hai đều hoảng sợ.
- Chồng em dẫm phải con ong, kêu là đau lắm. Em chỉ sợ nhỡ ong độc thì sao - N nói với tôi.
- Chị gọi cấp cứu nhé?
- Cấp cứu thế nào ạ?
- Gọi 911.
- Em không biết, thôi chị cứ gọi đi.

Tôi gọi 911. Họ hỏi rất nhiều câu trong lúc 2 đứa trẻ bắt đầu khóc; tôi cũng không nhớ chính xác họ hỏi những gì.
- Cô ở đâu?
- Tôi ở địa chỉ....
- Cô có vấn đề gì?
- Người bạn của tôi bị một con ong đốt, anh ấy rất đau, hiện không đi được...
- Anh ấy đang ngồi hay nằm?
- Ngồi.
- Có thở không?
- Có thở
- Có bị sốt không?
- Không
- Trên mặt có bị sưng, có vết đỏ hay không?
- Không, mặt anh ấy đang tái đi
- Anh ấy có bị dị ứng với cái gì không?
- Tôi không biết. Hiện nay anh ấy rất đau, không nói được, không đi được, chúng tôi sợ là ong độc thì có thể bị trúng độc.
- Chúng tôi sẽ gửi một xe cứu hỏa tới, có bác sỹ đi kèm. Cô đừng lo. Tạm thời, cô bảo anh ấy đừng di chuyển, cứ nằm hoặc ngồi tại chỗ, tùy tư thế nào dễ chịu hơn cho anh ấy, chúng tôi sẽ tới ngay.

Khoảng 7 phút sau có tiếng đập cửa. Tôi ra mở. Bốn người đàn ông còn trẻ, lực lưỡng, lao vào - hai người mặc đồng phục cứu hỏa phản quang màu xanh lá cây, một người mặc đồng phục bác sỹ, một người mặc đồng phục đen trông như lính thủy mặc đồ lặn. Anh bác sỹ (rất trẻ, da trắng) lập tức hỏi:
- Ai là người cần cấp cứu?

Tôi chỉ G cho anh ta.
- Tôi sẽ bắt mạch cho anh bây giờ - anh ta nói với G - và kiểm tra sơ bộ các thông số sống còn của anh, có được không?
- Vâng - G nói.

Anh bác sỹ lấy ống nghe ra nghe, rồi lấy đèn pin soi mắt, soi miệng, soi tai, sờ mạch, vv... Trong lúc này, anh mặc đồng phục đen cầm một bảng ghi chép nói chuyện với tôi.
- Cô là cô Nguyễn phải không? Cô là người gọi điện hả?
- Vâng.
- Chuyện gì xảy ra?

Tôi kể lại sự việc. Lúc này, N từ đằng sau đi tới chỗ hai chúng tôi. N giơ cái túi bóng cho anh ta xem, nói tiếng Việt:
- Đây này, con ong đây này.

Rồi quay sang tôi:
- Chị hỏi xem có phải ong độc không.

Anh ta nhìn con ong trong cái túi bóng - một con ong nhỏ bằng đầu đũa, màu nâu, đang cố lết trên thành túi, phía đuôi nó là một vệt đen dài - con ong đã bị sổ ruột sau khi đốt.

Hai người lính cứu hỏa cũng đã lại gần nhìn. Một anh là người da đen.
- Ồ không đâu cô, đây chỉ là một con ong thường thôi, không phải ong độc đâu - người mặc đồ đen nói với tôi.
- Ong đốt thì dĩ nhiên là đau rồi, hồi bé tôi cũng hay bị ong đốt - anh da đen nói - đau tưởng chết đi được nhưng mà không sao đâu. Cô cứ yên tâm, bạn cô không sao cả.
- Thế có thể chết vì bị ong đốt không? - tôi hỏi hộ N.
- Không cô ạ - người mặc áo đen nói - Ong này chỉ là ong thường thôi mà. Cô lấy túi đá chườm lên chỗ đau cho bạn cô thì sẽ đỡ.

Anh da đen không nhìn thẳng vào tôi khi nói. Người mặc áo đen thì có nhìn thẳng nhưng anh ta phải cố gắng lắm mới nhịn được cười. Thực ra lúc ấy, tôi cũng phải cố lắm mới nhịn được cười. Tôi tưởng tượng: bốn người đàn ông đang ngồi ở trạm cứu hỏa vào một tối mùa thu đẹp trời, có thể đang xem vô tuyến, chơi bài, hoặc tán gẫu; rồi có điện thoại 911, và họ vội vàng mặc đồng phục, lên xe, lao đến tòa nhà trên đường X. Họ mở cửa tòa nhà, đi thang máy lên tầng 7, gõ cửa căn hộ thứ Y. Cửa mở ra, họ lao vào. Trước mắt họ là một căn phòng đồ đạc bừa bộn khắp nơi, nào giấy, nào tã, nào đồ chơi, nào chăn màn, nào cũi, vân vân và vân vân. Trên sàn, một thanh niên châu Á gày gò đang nhăn nhó, mặt tái mét, nói không ra tiếng; hai người đàn bà châu Á nhỏ bé và xộc xêch đang lăng xăng đi lại quanh anh ta hỏi han; một đứa bé 3 tuổi mếu máo, lúc thì ngồi cạnh bố lúc thì chạy ra ôm chân mẹ; đứa nhỏ 5 tháng tuổi thì vừa cố lẫy vừa gào khóc trên sàn. Tất cả chỉ vì một con ong đất mà những người châu Á này đã bằng cách nào đó bắt được và bỏ vào trong một cái túi bóng, buộc chặt lại.

Phải bám rất chặt mới không lơi mắt khỏi những chuyển động rất tinh tế của cái đẹp và những cái nháy mắt của cuộc sống.

Wednesday, October 19, 2011

Chuyện chúng ta bắt đầu


Tuyển tập truyện ngắn Chuyện Chúng Ta Bắt Đầu của Tobias Wolff sẽ ra mắt vào ngày 11-11, trong loạt sách đầu tiên của tủ sách Cánh Cửa Mở Rộng. Khi dịch xong cuốn sách này, tôi đã đề nghị nhà văn Tobias Wolff viết một lời giới thiệu riêng cho độc giả Việt Nam. Dưới đây là lời giới thiệu này.

==============

Lời giới thiệu với bạn đọc Việt Nam

Những truyện ngắn này đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau; tuy thế tôi đặc biệt vui mừng khi chúng được dịch sang tiếng Việt. Tôi có một lịch sử cá nhân với Việt Nam: tôi từng học tiếng Việt trong một năm, rồi tới đồng bằng sông Mê-kông, vùng gần Mỹ Tho, vào năm 1967-1968 như một người lính. Tôi đã sống, làm việc với những người Việt Nam trong thời gian này và chịu tác động sâu sắc bởi những kinh nghiệm đó, nhất là sự thân thiện và tốt bụng của những con người tôi đã quen và cả phong cảnh tuyệt đẹp của Việt Nam.

Tôi bắt đầu viết truyện khi còn nhỏ. Mẹ tôi là một người mẹ đơn thân; bà làm việc vất vả cả ngày và tôi thích viết cái gì đó để làm bà vui khi bà trở về nhà sau giờ làm việc – hồi đó chúng tôi không có vô tuyến. Tôi viết những câu chuyện phiêu lưu, những truyện ngụ ngôn về loài vật, truyện cổ tích, truyện về những người anh hùng phải đối mặt với những thử thách lớn. Tôi đoán rất nhiều đứa trẻ làm điều này, cho đến lúc chúng lớn lên và tìm ra cách sử dụng thời gian thực tế hơn. Tôi thì không bao giờ lớn. Những truyện ngắn và tiểu thuyết mà tôi đọc vẫn tiếp tục là nguồn vui với tôi trong thời thiếu niên và lúc trưởng thành – đầu tiên như một nguồn vui đơn giản, rồi sau đó như một cách để hiểu về thế giới và những con người quanh tôi. Và khi tôi viết những truyện ngắn và tiểu thuyết của chính mình, tôi mong muốn mang lại cho độc giả một niềm vui giống như niềm vui tôi đã có từ văn học, và cũng để mang lại một hình hài nghệ thuật cho những suy nghĩ và hiểu biết mà tôi có được từ các kinh nghiệm sống.

Mặc dù làm nhà văn ở Mỹ không dễ, tôi đã may mắn. Các tác phẩm của tôi đã được độc giả đón nhận và một trong các cuốn sách của tôi – cuốn hồi ký có tên Cuộc đời tôi[1] – đã được chuyển thể thành phim với sự tham gia của một số diễn viên tuyệt vời. Nhưng hơn cả những thành công này, tôi tự coi mình may mắn theo nghĩa tôi có thể sống bằng cách viết truyện và đã biết những nhà văn Mỹ và Anh vĩ đại nhất của thời đại chúng ta – Saul Bellow, Raymond Carver, William Styron, Joyce Carol Oates, Richard Ford, Ian McEwan, Martin Amis… Tôi đã sống cuộc đời mà một đứa trẻ viết truyện để làm mẹ vui không dám mơ tới.

Tôi đã viết những câu chuyện này trong khoảng thời gian 30 năm. Thực tế là tôi viết rất nhiều truyện khác ngoài những truyện trong tập sách này; cuốn sách này tập hợp những truyện ngắn mà tôi coi là thành công nhất. Tôi đã mất rất nhiều thời gian cho mỗi truyện, kể cả những truyện rất ngắn – tôi viết chúng, rồi viết lại, rồi lại viết lại thêm nữa, cho đến khi với tôi, mỗi câu, mỗi từ, mỗi dấu phẩy đều ở vào đúng chỗ của chúng; mỗi nhân vật được khắc họa với toàn bộ sự phức tạp nhân cách của nhân vật đó; mỗi câu chuyện được kể theo một lối có thể hé lộ những hoàn cảnh thách thức suy nghĩ của chúng ta, buộc ta phải lựa chọn như chúng ta vẫn phải làm trong cuộc sống thực: tức là lựa chọn không phải giữa những phiên bản trắng-đen của cái tốt và xấu mà giữa những sắc xám. Nếu những lựa chọn đạo đức lúc nào cũng rõ ràng với chúng ta thì cuộc sống sẽ trở nên dễ hơn rất nhiều. Tôi đã cố gắng diễn tả sự thật này trong tác phẩm của tôi.

Trên phim ảnh, người Mỹ thường được khắc họa như những hình mẫu hoặc đầy sự suy đồi nông nổi, hoặc có lòng tốt và sự anh hùng siêu việt. Dĩ nhiên, hầu hết người Mỹ không như thế. Họ vật lộn để nuôi gia đình giống như mọi người ở khắp nơi trên thế giới và họ cũng vật lộn để tìm ra đường đi đúng trong đời sống khi mà con đường đó không phải lúc nào cũng rõ ràng. Tôi hy vọng các bạn sẽ nghĩ đến những người bạn gặp trong cuốn sách này như những tâm hồn đồng điệu, những người mà bạn có thể gặp trên đường phố ở New York, ở Berlin, ở Hà Nội, và nhận ra họ, và giơ tay chào.

California, 9-2011

Tobias Wolff


[1] This Boy’s Life: cun hi ký được chuyn th thành phim vi s tham gia ca Robert de Niro, Ellen Barkin, và Leonardo diCaprio. Cun sách k v tui thơ ca Tobias Wolff vi người cha bo hành.