Sunday, May 20, 2012

Chết ở Venice - phần 7

Một số bạn có yêu cầu tôi post tiếp các phần của các sách trong tủ sách CCMR nhưng NXB có yêu cầu là tôi không post quá một số lượng nhất định nên tôi chỉ có thể post thêm một số phần nữa.

=========

Chết ở Venice - phần 7

Khoảng tầm trưa người ta gọi ông xuống gian phòng ăn dài như cái hành lang, có cửa thông sang các khoang phòng ngủ, để dùng bữa. Ông ngồi vào một đầu chiếc bàn dài, ở đầu kia toán nhân viên thương mại, cả lão già, đã ngồi nhậu nhẹt với viên thuyền trưởng vui tính từ lúc mười giờ. Bữa ăn rất đạm bạc, và ông ăn thật nhanh cho xong. Ông nóng lòng muốn ra ngoài ngóng nhìn trời: chẳng biết phía Venice trời có hửng lên không?

Ông không trông đợi điều gì khác, vì thành phố này luôn luôn đón tiếp ông trong ánh sáng huy hoàng. Nhưng trời và biển vẫn mù mịt một màn sương nặng như chì, thỉnh thoảng còn đổ mưa phùn, và ông đành chấp nhận ý nghĩ rằng trên thủy lộ ông sẽ gặp một Venice khác hẳn những lần xưa đến bằng đường bộ. Đứng bên cột buồm mũi dõi mắt ra xa ngóng vào đất liền, ông nhớ đến một thi sĩ[1] với tâm hồn ưu tư nồng cháy, xưa kia đã thổn thức khi những mái vòm gác chuông trong mộng tưởng nhô lên từ sau làn nước lai láng này đây, ông thầm lặp lại trong yên lặng một vài lời khi ấy đã biến lòng tôn kính, hạnh phúc và sầu đau thành bài ca tuyệt mỹ, và ru mình trong cảm xúc ngày nào ông tự hỏi, trái tim khô khan và mệt mỏi liệu có còn khả năng đón nhận chút bồi hồi rung động mới, một cuộc phiêu lưu tình cảm muộn màng dành cho kẻ lãng du nữa hay không.

Rồi bên phải mạn tàu nổi dần lên dải bờ thấp, những con thuyền đánh cá lăng xăng làm mặt biển hết đìu hiu, hòn đảo nghỉ mát Lido hiện ra, lùi dần về bên trái, chiếc tàu thủy giảm tốc độ lướt qua cửa biển hẹp cùng tên với đảo vào trong vịnh và dừng lại ngang tầm những ngôi nhà đơn sơ quét vôi sặc sỡ trên bờ, neo lại đó đợi thuyền vệ sinh dịch tễ ra kiểm tra.

Một giờ đồng hồ trôi qua mới thấy mặt họ. Đã đến nơi mà vẫn chưa tới đích; dẫu không vội vã gì người ta cũng cảm thấy nóng lòng sốt ruột. Đám thanh niên Pola, hẳn lòng ái quốc bị tiếng kèn nhà binh từ mạn công viên vọng qua mặt nước khơi dậy, kéo hết cả lên boong, và, được rượu Asti cổ vũ tinh thần, lớn tiếng tung hô đội xạ thủ đang tập dượt trên bờ. Nhưng thật kinh tởm khi phải chứng kiến tình cảnh lão già cưa sừng làm nghé gồng lên giả trẻ. Bộ thần kinh rệu rão của lão không kham nổi lượng cồn như đám trai cường tráng, nên lão say bí tỉ. Cái nhìn đờ đẫn, điếu thuốc lá run rẩy giữa mấy ngón tay, lão lắc lư, khổ sở để giữ thăng bằng, người cứ ngả nghiêng từ trước ra sau. Sợ bước đi một bước là đổ nhào, lão không dám nhấc chân khỏi chỗ, nhưng vẫn cố tỏ ra hào hứng một cách thảm hại, cứ có ai lại gần là lão túm chặt áo, ngọng líu ngọng lô, mắt nháy lia lịa, miệng cười khúc khích, ngón tay trỏ nhăn nheo khua khua bỡn cợt và đầu lưỡi lo le liếm mép ngụ ý hết sức tục tĩu và bỉ ổi. Aschenbach chau mày nhìn lão đầy ác cảm, và lại thấy trào lên trong lòng cảm giác nôn nao, như thể thế giới đang nghiêng lệch đi theo một khuynh hướng mong manh nhưng không gì cản nổi, biến dạng thành một bức biếm họa kỳ khôi và phi lý; nhưng hoàn cảnh bấy giờ không cho phép ông dò tìm đến ngọn nguồn cảm giác ấy vì con tàu lại bắt đầu rồ máy tiếp tục cuộc hành trình bị gián đoạn khi đã gần tới đích, đi vào kênh San Marco.

Thế là ông đã được gặp lại chốn thân quen, bến cảng đẹp tuyệt trần, tập hợp kiến trúc hoành tráng mà xứ cộng hòa này từ xưa đã đem ra trưng bày trước cặp mắt e dè kính phục của khách hàng hải từ biển vào: Cung điện nguy nga tráng lệ, cây cầu Than Thở, hàng cột đội tượng thiên thần và tượng sư tử dọc bờ kênh, một cánh bên hông Ngôi Đền Thần Thoại nhô lên bề thế uy nghi, quang cảnh nhìn xuyên qua Cổng Thành và Tháp Đồng Hồ khổng lồ; vừa say sưa chiêm ngưỡng ông vừa tự nhủ, đi đường bộ đến Venice qua nhà ga thật chẳng khác gì vào một cung điện bằng lối cửa sau, và để đến thành phố hư ảo nhất trần đời này người ta không nên đi cách nào khác ngoài cách ông đang đi đây, bằng tàu thủy, vượt trùng khơi.

Tàu tắt máy, những chiếc gondola[1] tấp đến, thang dây buông xuống, nhân viên quan thuế lên tàu khám xét qua quít lấy lệ; hành khách được phép rời tàu. Aschenbach ngỏ ý cần một chiếc gondola chở người và hành lý đến bến canô chạy từ thành phố sang đảo Lido; vì ông muốn thuê phòng trọ ngoài bãi biển. Y lệnh, người ta lớn tiếng xướng nguyện vọng của ông xuống mặt nước, nơi những người chèo gondola đang chí chóe cãi nhau bằng thổ ngữ địa phương. Ông còn kẹt chưa xuống được vì vướng chiếc vali, dù lôi hay kéo đều rất khó đưa đi qua mấy bậc thang dây. Thế cho nên mất vài phút ông không thể nào thoát khỏi tay lão già gớm ghiếc, trong cơn say xỉn cứ nhất định đòi chia tay ông khách lạ. “Chúc ngài một kỳ nghỉ tuyệt vời”, lão lè nhè trong lúc nhún gối khuỵu chân trịnh trọng cúi chào theo lối cung đình. “Mong được nhớ mãi kỷ niệm hôm nay! Au revoir, excusez và bon jour[2], thưa quý ngài!” Rớt dãi lòng thòng nhểu ra từ miệng, lão dụi mắt, lão liếm mép, và hàng ria nhuộm trên cặp môi già nua dựng lên tua tủa. “Xin gửi lời thăm”, lão líu lưỡi ngọng nghịu, hai ngón tay ấn vào miệng, “gửi lời thăm cưng của ông, cưng đẹp nhất, đáng yêu nhất hạng...” Bất thình lình nửa trên hàm răng giả của lão tuột ra rơi xuống môi dưới. Aschenbach thừa cơ thoát nạn. “Cưng dễ thương, cưng thượng hạng”, ông còn nghe sau lưng mình tiếng lắp bắp khàn đặc tiếp tục gù ghì, trong lúc nắm chặt tay vịn thang dây lần bước xuống.


[1]      Thuyền nhẹ đáy bằng, mũi cong, chuyên chở khách trên những dòng kênh ở Venice.

[2]      “Tạm biệt, xin lỗi và xin chào”.




[1]      Bá tước August von Platen (1796-1835) với nguyện vọng, ngày nào đó sẽ có một lữ khách hậu sinh đọc bài thơ Venice của ông mà đồng cảm thốt lên: “Nơi đây đã thổn thức nhịp đập của một trái tim đầy cảm xúc”.





Friday, May 18, 2012

Hội thảo quốc tế về CTXH

Từ ngày 11 đến 13 tháng 6, tại trường ĐH Quốc Gia Hà Nội sẽ diễn ra Hội thảo quốc tế về công tác xã hội (social work) do ĐHQGHN, ĐH San Jose, và Hội giáo dục CTXH châu Á - TBD thuộc Hội đồng giáo dục CTXH Hoa Kỳ đồng tổ chức. Phần dưới này trích từ trong lời mời viết bài cho hội thảo.


"Hội thảo này nhằm tạo ra một diễn đàn trao đổi sôi nổi và thực tế về các lý thuyết, kiến thức, kỹ năng hiện đại trong CTXH thế giới và việc ứng dụng chúng ở Việt Nam. Hội thảo cũng là nơi cho các nhà hoạch định chính sách, nhà nghiên cứu, giáo dục, và thực hành CTXH trao đổi về các vấn đề nổi cộm và cụ thể trong xây dựng CTXH ở Việt Nam. Nội dung của các tham luận có thể bao gồm nhưng không giới hạn ở các lĩnh vực sau:

·         Phúc lợi trẻ em và gia đình
·         Sức khỏe tâm thần
·         CTXH ở đô thị (HIV/AIDS, ma túy, mại dâm, di cư, vv…)
·         CTXH tại nông thôn
·         Mạng lưới dịch vụ CTXH và mạng lưới nhân viên CTXH.
·         Phát triển cộng đồng
·         CTXH trong trường học và y tế
·         CTXH với các nhóm đặc biệt (khuyết tật, cựu chiến binh, người già, vv…)
·         Đào tạo CTXH (xây dựng chương trình, đào tạo sau ĐH, thực tập, giấy phép, vv…)
·         Nghiên cứu CTXH (phương pháp nghiên cứu, đề tài, vấn đề văn hóa, vv…)
·         An sinh xã hội và chính sách xã hội

Các bạn có quan tâm tới hội thảo này có thể xem thêm thông tin tại đây:




Wednesday, May 16, 2012

Về cái ác

Đọc bài "Tại sao người ta hành xử tàn ác" trên blog GS Trần Văn Tuấn, tôi muốn viết một chút. Đây chỉ là suy nghĩ tản mạn chưa sắp xếp trong lúc quá bận.

Trước hết là khái niệm "ác". Trong khái niệm này có ít nhất hai thứ - một là bản thân hành động/hành vi, và hai là sự đánh giá, thường của xã hội, nhóm, hoặc cá nhân cụ thể, về ý nghĩa và giá trị đạo đức của hành động đó. Ngoài ra thì có một phần thứ ba nữa mà ít người tính đến, đó là  xét trên một tổng thể rộng lớn hơn - tiếng Anh hay gọi là cosmic sense, tức là tính đến ý nghĩa kiểu như tính dây chuyền nhân quả trên phạm vi toàn nhân loại, toàn vũ trụ, toàn thể cái gọi là cuộc sống - thì một hành vi còn phải bị xét đoán là có "ác" hay không theo nghĩa này.

Ngoài ra, nếu lại còn xét thêm một tầng nữa bên trên cái cosmic sense này, theo kiểu "sắc sắc, không không" của nhà Phật, thì thực sự mà nói là rất khó có thể kết luận một hành vi nào đó là ác hay không, bởi vì nếu ta nhìn thật rộng và dài ra "vô lượng kiếp", thì mỗi một hành vi đều quá nhỏ, và tuân theo những quy luật lớn nhất định, cho nên việc gán nghĩa cho nó trong một bối cảnh hữu hạn về không gian thời gian là hầu như vô nghĩa; quan trọng hơn, khi xét đến độ này, thì thực ra mọi ý nghĩa đều đã bị triệt tiêu, chỉ còn lại bản thân hành động trần trụi... và hành động này xảy ra tuân theo những quy luật mà nói như kinh Phật thì "bất khả tư nghị" tức là "không thể nghĩ bàn".

Nhưng chúng ta sống trong không gian và thời gian hữu hạn, và về cơ bản thì bị chi phối bởi tính hữu hạn này (cộng với sự hữu hạn còn lớn hơn của tư duy). Cho nên ta vẫn cứ phải xét đến chuyện ác trong hai chiều đầu tiên, với khung tham chiếu là không gian và thời gian cụ thể mà hành vi đó xảy ra.

Nói như thế thì càng ngày tôi càng thấy là có vô cùng ít người thực sự có thể gọi là "tốt". Làm người tốt vô cùng khó; và người tốt thì lại thường "buồn tẻ" cho nên chẳng mấy khi được để ý. Vì để làm người tốt thật sự, thì ngoài cái chuyện tâm tính thiên bẩm là một người "tốt" (ví dụ thương người, hiền hòa, không tham lam, hay nghĩ cho người khác, dũng cảm, trung thực, công bằng, độ lượng, vv...) thì một cái phần quan trọng hơn nữa là phải nhìn nhận được rất rõ về sự vận hành chắc chắn của luật nhân- quả. Nếu đã nhìn thấy nhân-quả vận hành một cách chắc chắn, thì không thể không "tốt" - có thể ban đầu là tốt như một ý thức và một sự tính toán lợi ích (chỗ này giống Pascal lí giải vì sao người ta tin Chúa trên quan điểm tính toán chi phí); nhưng sau đó trở thành một điều thuận theo lẽ tự nhiên. Như vậy, thực ra để "tốt" thật sự thì phải rất hiểu về nhiều thứ. Tốt đến chỗ này thì không lí luận nữa rồi.

Còn lại đa số chúng ta thì sao? Đa số chúng ta muốn là "người tốt" và cố gắng tốt; nhưng rút cục, chúng ta đều chỉ là những người làm những việc, có một số việc tốt và một số việc "ác". Trong post "Trở lại Paris", tôi có viết "Cái áp lực hoàn hảo bản thân và/hoặc bản thân hoàn hảo là một áp lực ảo tưởng lãng phí" là có cái ý này. Rất khó nói một người là "người tốt" hay xấu; bởi vì cái gọi là "một người" thực ra, về cơ bản, chỉ là tập hợp rất nhiều việc người đó làm. Một người có thể cố gắng làm tốt tất cả những việc họ phải làm, làm tốt từng việc một, và như vậy thì "người đó" nói chung tốt; nhưng không có cái "người này" tốt tự thân. Người đó có thể làm những việc xấu, hoặc việc mà người khác cho là xấu.

Với cá nhân tôi, khi tôi chỉ tập trung vào từng việc, và với mỗi việc, tôi nói "tôi sẽ cố gắng làm tốt việc này một cách hết sức có thể" thì mọi việc dễ thở hơn nhiều so với việc tôi nói "tôi là người tốt, và tôi phải làm thế này, thế này..." Khi bạn khăng khăng rằng bạn là "người tốt", rồi bạn làm một việc xấu, thì sự chênh lệnh giữa nhận thức/mong muốn của cá nhân bạn về bạn với hành vi của bạn sẽ thường gây ra rất nhiều biến thái tâm lý đáng tiếc, và sẽ có những hậu quả domino to lớn (trong tâm lý học, cái này chính là các dạng khác nhau của identity crisis và các rối loạn liên quan đến identity). Hoặc ngược lại, ngay từ đầu, cái việc bạn khăng khăng bạn là "người tốt" có thể sẽ có tác dụng như một thứ siêu ngã đưa đến việc bạn làm rất nhiều việc giả trá vì chịu cái áp lực phải là "người tốt" hoặc các áp lực tương tự đến từ các danh hiệu tương tự "người giỏi", "người trẻ", "người hoàn hảo", "người x, y, z...".


Quay lại với chuyện ác. Càng ngày tôi càng thấy là ai cũng có khả năng có hành vi ác nếu có điều kiện. Trong cuộc sống hàng ngày, những người bình thường cũng sẽ ác nếu họ có thể. Mà tôi không nói đến "ác" theo nghĩa phải tra tấn, đánh đập, chửi bới... "ác" theo nghĩa, để cho đơn giản thì tạm coi là việc họ sẽ làm với người khác những việc họ sẽ không làm với bản thân mình hoặc không muốn người khác làm thế với mình. Ví dụ, trong công việc, tôi thấy quá nhiều người đẩy việc cho đồng nghiệp, bắt cấp dưới làm quá sức, lợi dụng đồng nghiệp... Ngay trong môi trường học thuật, chuyện giáo sư bắt nghiên cứu sinh làm việc quá sức, cấp trên bắt cấp dưới làm việc có lợi cho mình, hoặc trong cùng một nhóm, khi người ta biết điểm yếu của bạn (ví dụ như họ biết bạn là người làm việc trách nhiệm, bạn không bao giờ từ chối giúp người khác, bạn cầu toàn) thì họ sẽ luôn đẩy việc cho bạn. Miễn có cơ hội và có môi trường để thực hiện điều đó, con người ta sẽ lợi dụng nhau và lạm dụng nhau.

Nói đến lạm dụng (abuse); chuyện này diễn ra phổ biến trong gia đình, nơi làm việc, trong toàn xã hội. Trong gia đình, bố mẹ có thể lạm dụng con cái; chồng lạm dụng vợ về mặt thể chất, tinh thần (và ngược lại). Trong một xã hội, các loại giáo điều và văn hóa có tính đè nén cũng là một hình thức lạm dụng tập thể về tinh thần. Khoa học đã chỉ ra rằng những người từng bị lạm dụng sẽ có nguy cơ trở thành kẻ lạm dụng người khác khi có điều kiện - mà xã hội loài người đến nay thì về cơ bản là xã hội có giai cấp, với các nhóm lợi ích và quyền lực khác nhau; các tổ chức xã hội cơ bản như gia đình, nhà trường, nơi làm việc đều là các tổ chức có phân cấp. Một đứa trẻ bị bố đánh đập, dè bỉu, chỉ trích nặng nề lúc bé thì lớn lên sẽ có nguy cơ đánh đập, dè bỉu, chỉ trích bạn đời hoặc con cái mình. Những người bị cấp trên lạm dụng sẽ lạm dụng trở lại cấp nhỏ hơn hoặc về nhà lạm dụng vợ con. Một xã hội bị lạm dụng, đè nén, sẽ có khả năng hành xử như những nạn nhân của sự lạm dụng khi có cơ hội. Ít người có khả năng không lạm dụng/lợi dụng người khác khi có điều kiện.

Điều này lại quay lại với điều tôi cũng nói trong bài "Trở lại Paris": sự sai hỏng một cách hệ thống của cuộc sống hiện đại khi phương pháp đo lường giá trị đang bị đánh tráo với bản thân giá trị. Xã hội ngày nay đo lường con người bằng những thước đo có vấn đề  (bao gồm cả cách đo năng suất ở nơi làm việc, đo hiệu quả công việc, đo giá trị trong xã hội, đo giá trị của một đời người), khiến cho người ta phải nghĩ ra những cách đối phó với việc đo giá trị, thay vì tạo ra giá trị. Đây là cái làm nảy sinh tất cả những giả trá, bừa ẩu, và độc ác theo nghĩa hẹp.

Giải quyết chuyện này thế nào?

Câu trả lời của mỗi người nằm ở quan niệm của họ về việc: đâu là điểm tác động tạo ra hiệu quả lớn nhất. Ví dụ, có người cho là cần tác động vĩ mô vào hệ thống, vào các thiết chế chính, ví dụ như chính trị, nền kinh tế, văn hóa, cấu trúc xã hội. Có người thì cho là cần tác động vào các cá nhân, bắt đầu từ các cá nhân mà đi lên. Ngay cả trong niềm tin phải tác động vào các cá nhân, có người sẽ chọn tác động vào tư duy nói chung, có người chọn tác động vào hành vi, hoặc vào tâm tính, tình cảm, có người cho là phải tác động vào đạo đức... Vân vân...


Tôi cứ lấy tôi ra làm ví dụ vậy. Lấy một ví dụ nhỏ là tủ sách Cánh cửa mở rộng; tôi chắc chắn bạn đọc nhận ra tôi và anh Châu chọn sách hơi khác nhau một chút. Rất nhiều sách tôi chọn có xuất phát điểm là hai niềm tin của tôi: thứ nhất là niềm tin rằng trong bối cảnh hiện tại, một điểm tác động hiệu quả là các cá nhân; khi có một cá nhân vững, rồi nhiều cá nhân vững sẽ tạo nên những quần thể vững và những xã hội vững; thứ hai là niềm tin rằng với đọc giả Việt nam hiện tại (nhất là độc giả trẻ), cái cần hơn không phải là kiến thức mà là thái độ hiền lành, là cái tâm tính giản dị, kiên trì, kiên định trong mọi việc mình làm... Thế nên nhiều sách tôi chọn chỉ là những sách nói những chuyện sống bình thường. Sống bình thường thực ra rất khó; phải kiên định lắm mới sống bình thường được; nhưng nếu ai cũng sống bình thường, làm những việc của mình thật tốt thì tự khắc mọi thứ đâu vào đấy. Nói như này dĩ nhiên là một cách nói đơn giản hóa nhưng trong chừng mực những thứ có thể nói được thì tôi tạm nói như vậy.

Ở tầng vĩ mô hơn phải tác động thế nào thì đấy lại là một câu chuyện khác.

Một việc không tốt là một việc không tốt. Một việc tốt là một việc tốt. Việc nào ra việc ấy và có hậu quả của việc ấy. Còn những chủ thể người của những việc tốt và không tốt là một việc khác. Khi quy trách nhiệm, dĩ nhiên ta vẫn phải quy về con người; nhưng đánh giá con người cũng cần tách bạch đánh giá việc họ làm và đánh giá "con người" họ.

Thôi, tôi lan man đến đây cũng dài rồi.

Monday, May 07, 2012

Trở lại Paris



Sau 4 năm, Paris bỗng trở nên quá nhỏ bé và gần như công thức, kể cả trong cách phô bày sự tự do và lãng mạn vô hướng.

Phải nhìn kỹ mới thấy bóng dáng của những cái mà Hugo từng gọi là "sự vĩ đại của Paris". Có điều, những bóng dáng ấy, những mạch ngầm ấy bây giờ cũng có thể thấy ở nhiều thành phố khác trên thế giới, không nhất thiết là các thành phố lớn. Chúng nằm trước hết ở con người.

Ở Paris hiện tại, không thể không ý thức về những cái già và phải chết. Về sự tràn lan của nhu cầu giải trí và ráo riết giết thời gian thay vì nhu cầu sống trong thời gian của con người. Về sự sai hỏng một cách hệ thống của cuộc sống hiện đại khi phương pháp đo lường giá trị đang bị đánh tráo với bản thân giá trị. Và về cái cách mà hầu hết con người đang sống trong sự dè sẻn tình yêu; chỉ trao và nhận từng liều lượng nhỏ; như để giành và dàn đều một món tiền tiết kiệm cho 70 năm tồn tại. Chúng ta sống như thể đang thanh minh, đang chứng minh một điều gì đó thực ra không cần chứng minh.

Cái áp lực hoàn hảo bản thân và/hoặc bản thân hoàn hảo là một áp lực ảo tưởng lãng phí.

Nhưng cũng vì những sự tàn phai hiện tại (hoặc là sự lưu vong tạm thời của các giá trị Paris) mà Paris làm cho những thứ khác trở nên rõ nét in focus.