=========
Chết ở Venice - phần 7
Khoảng tầm trưa người ta gọi ông xuống gian phòng ăn
dài như cái hành lang, có cửa thông sang các khoang phòng ngủ, để dùng bữa. Ông
ngồi vào một đầu chiếc bàn dài, ở đầu kia toán nhân viên thương mại, cả lão
già, đã ngồi nhậu nhẹt với viên thuyền trưởng vui tính từ lúc mười giờ. Bữa ăn
rất đạm bạc, và ông ăn thật nhanh cho xong. Ông nóng lòng muốn ra ngoài ngóng
nhìn trời: chẳng biết phía Venice trời có hửng lên không?
Ông không trông đợi điều gì khác, vì thành phố này
luôn luôn đón tiếp ông trong ánh sáng huy hoàng. Nhưng trời và biển vẫn mù mịt
một màn sương nặng như chì, thỉnh thoảng còn đổ mưa phùn, và ông đành chấp nhận
ý nghĩ rằng trên thủy lộ ông sẽ gặp một Venice khác hẳn những lần xưa đến bằng
đường bộ. Đứng bên cột buồm mũi dõi mắt ra xa ngóng vào đất liền, ông nhớ đến một
thi sĩ[1]
với tâm hồn ưu tư nồng cháy, xưa kia đã thổn thức khi những mái vòm gác chuông
trong mộng tưởng nhô lên từ sau làn nước lai láng này đây, ông thầm lặp lại
trong yên lặng một vài lời khi ấy đã biến lòng tôn kính, hạnh phúc và sầu đau
thành bài ca tuyệt mỹ, và ru mình trong cảm xúc ngày nào ông tự hỏi, trái tim
khô khan và mệt mỏi liệu có còn khả năng đón nhận chút bồi hồi rung động mới, một
cuộc phiêu lưu tình cảm muộn màng dành cho kẻ lãng du nữa hay không.
Rồi bên phải mạn tàu nổi dần lên dải bờ thấp, những
con thuyền đánh cá lăng xăng làm mặt biển hết đìu hiu, hòn đảo nghỉ mát Lido hiện
ra, lùi dần về bên trái, chiếc tàu thủy giảm tốc độ lướt qua cửa biển hẹp cùng
tên với đảo vào trong vịnh và dừng lại ngang tầm những ngôi nhà đơn sơ quét vôi
sặc sỡ trên bờ, neo lại đó đợi thuyền vệ sinh dịch tễ ra kiểm tra.
Một giờ đồng hồ trôi qua mới thấy mặt họ. Đã đến nơi
mà vẫn chưa tới đích; dẫu không vội vã gì người ta cũng cảm thấy nóng lòng sốt
ruột. Đám thanh niên Pola, hẳn lòng ái quốc bị tiếng kèn nhà binh từ mạn công
viên vọng qua mặt nước khơi dậy, kéo hết cả lên boong, và, được rượu Asti cổ vũ
tinh thần, lớn tiếng tung hô đội xạ thủ đang tập dượt trên bờ. Nhưng thật kinh
tởm khi phải chứng kiến tình cảnh lão già cưa sừng làm nghé gồng lên giả trẻ. Bộ
thần kinh rệu rão của lão không kham nổi lượng cồn như đám trai cường tráng,
nên lão say bí tỉ. Cái nhìn đờ đẫn, điếu thuốc lá run rẩy giữa mấy ngón tay,
lão lắc lư, khổ sở để giữ thăng bằng, người cứ ngả nghiêng từ trước ra sau. Sợ
bước đi một bước là đổ nhào, lão không dám nhấc chân khỏi chỗ, nhưng vẫn cố tỏ
ra hào hứng một cách thảm hại, cứ có ai lại gần là lão túm chặt áo, ngọng líu
ngọng lô, mắt nháy lia lịa, miệng cười khúc khích, ngón tay trỏ nhăn nheo khua
khua bỡn cợt và đầu lưỡi lo le liếm mép ngụ ý hết sức tục tĩu và bỉ ổi. Aschenbach
chau mày nhìn lão đầy ác cảm, và lại thấy trào lên trong lòng cảm giác nôn nao,
như thể thế giới đang nghiêng lệch đi theo một khuynh hướng mong manh nhưng
không gì cản nổi, biến dạng thành một bức biếm họa kỳ khôi và phi lý; nhưng
hoàn cảnh bấy giờ không cho phép ông dò tìm đến ngọn nguồn cảm giác ấy vì con
tàu lại bắt đầu rồ máy tiếp tục cuộc hành trình bị gián đoạn khi đã gần tới
đích, đi vào kênh San Marco.
Thế là ông đã được gặp lại chốn thân quen, bến cảng đẹp
tuyệt trần, tập hợp kiến trúc hoành tráng mà xứ cộng hòa này từ xưa đã đem ra
trưng bày trước cặp mắt e dè kính phục của khách hàng hải từ biển vào: Cung điện
nguy nga tráng lệ, cây cầu Than Thở, hàng cột đội tượng thiên thần và tượng sư
tử dọc bờ kênh, một cánh bên hông Ngôi Đền Thần Thoại nhô lên bề thế uy nghi,
quang cảnh nhìn xuyên qua Cổng Thành và Tháp Đồng Hồ khổng lồ; vừa say sưa
chiêm ngưỡng ông vừa tự nhủ, đi đường bộ đến Venice qua nhà ga thật chẳng khác
gì vào một cung điện bằng lối cửa sau, và để đến thành phố hư ảo nhất trần đời
này người ta không nên đi cách nào khác ngoài cách ông đang đi đây, bằng tàu thủy,
vượt trùng khơi.
Tàu tắt máy, những chiếc gondola[1]
tấp đến, thang dây buông xuống, nhân viên quan thuế lên tàu khám xét qua quít lấy
lệ; hành khách được phép rời tàu. Aschenbach ngỏ ý cần một chiếc gondola chở
người và hành lý đến bến canô chạy từ thành phố sang đảo Lido; vì ông muốn thuê
phòng trọ ngoài bãi biển. Y lệnh, người ta lớn tiếng xướng nguyện vọng của ông
xuống mặt nước, nơi những người chèo gondola đang chí chóe cãi nhau bằng thổ ngữ
địa phương. Ông còn kẹt chưa xuống được vì vướng chiếc vali, dù lôi hay kéo đều
rất khó đưa đi qua mấy bậc thang dây. Thế cho nên mất vài phút ông không thể
nào thoát khỏi tay lão già gớm ghiếc, trong cơn say xỉn cứ nhất định đòi chia
tay ông khách lạ. “Chúc ngài một kỳ nghỉ tuyệt vời”, lão lè nhè trong lúc nhún
gối khuỵu chân trịnh trọng cúi chào theo lối cung đình. “Mong được nhớ mãi kỷ
niệm hôm nay! Au revoir, excusez và bon jour[2],
thưa quý ngài!” Rớt dãi lòng thòng nhểu ra từ miệng, lão dụi mắt, lão liếm mép,
và hàng ria nhuộm trên cặp môi già nua dựng lên tua tủa. “Xin gửi lời thăm”,
lão líu lưỡi ngọng nghịu, hai ngón tay ấn vào miệng, “gửi lời thăm cưng của
ông, cưng đẹp nhất, đáng yêu nhất hạng...” Bất thình lình nửa trên hàm răng giả
của lão tuột ra rơi xuống môi dưới. Aschenbach thừa cơ thoát nạn. “Cưng dễ
thương, cưng thượng hạng”, ông còn nghe sau lưng mình tiếng lắp bắp khàn đặc tiếp
tục gù ghì, trong lúc nắm chặt tay vịn thang dây lần bước xuống.
[1] Thuyền nhẹ đáy bằng, mũi cong, chuyên chở
khách trên những dòng kênh ở Venice.
[2] “Tạm biệt, xin lỗi và xin chào”.
[1] Bá tước August von Platen (1796-1835) với
nguyện vọng, ngày nào đó sẽ có một lữ khách hậu sinh đọc bài thơ Venice của ông
mà đồng cảm thốt lên: “Nơi đây đã thổn thức nhịp đập của một trái tim đầy cảm
xúc”.