Showing posts with label Tortilla_Flat. Show all posts
Showing posts with label Tortilla_Flat. Show all posts

Thursday, November 22, 2012

Thị trấn Tortilla Flat - Chương 3


Thị trấn Tortilla Flat
John Steinbeck
Người dịch: Lâm Vũ Thao 



Chương 3 

Nọc độc của tài sản tác động tới Pilon như thế nào và cái ác đã tạm thời thắng thế trong chàng ra sao.


Hôm sau Pilon tới sống trong căn nhà bên kia. Căn này giống y hệt căn của Danny, duy chỉ nhỏ hơn. Khắp hiên nhà là hoa hồng dại, có khoảnh sân cỏ mọc rậm rì, có những cây ăn quả cằn cỗi, lâu đời, có hoa phong lữ đỏ - còn trại gà của bà Soto thì ngay bên cạnh.

Danny trở thành một người vĩ đại vì có nhà cho thuê, còn Pilon cũng thăng tiến trên nấc thang xã hội nhờ việc đi thuê nhà.

Không thể nói liệu Danny có mong nhận được món tiền thuê nhà nào không, hay Pilon có tính trả đồng nào không. Nếu có, thì cả hai đều thất vọng. Danny không bao giờ đòi, mà Pilon cũng không bao giờ đề nghị trả.

Hai người bạn thường xuyên gặp gỡ nhau. Hễ Pilon vớ được một bình rượu hay một tảng thịt thì Danny chắc chắn sẽ ghé thăm. Và, nếu Danny may mắn hay tinh khôn cùng một cách như thế, thì Pilon cũng tưng bừng một đêm với chàng. Pilon tội nghiệp ắt sẽ trả tiền thuê nhà nếu có lúc nào chàng có tí tiền, nhưng chàng chẳng bao giờ có - chẳng có tiền đủ lâu để tìm ra Danny. Pilon là người trung thực. Đôi khi chàng lo lắng nghĩ tới lòng tốt của Danny và tình trạng nghèo túng của mình.

Một đêm nọ chàng có một đô la, kiếm được một cách lạ lùng đến nỗi chàng cố quên chuyện ấy ngay lập tức vì sợ ký ức có thể khiến chàng phát điên. Một người đàn ông trước khách sạn San Carlos dúi vào tay chàng một đô la, bảo “Chạy đi mua hộ bốn chai nước ngọt với. Khách sạn hết sạch rồi.” Những chuyện thế này hầu như là những phép mầu, Pilon nghĩ. Người ta nên tin ngay những chuyện ấy, chớ có lo lắng, hỏi han gì.. Chàng cầm một đô la lên đường để đưa cho Danny, nhưng giữa chừng chàng mua một ga lông rượu, và với chỗ rượu ấy chàng dụ được hai cô gái mũm mĩm vào nhà mình.

Danny, lúc ấy đi ngang, nghe tiếng ồn ào vui vẻ bèn tiến vào. Pilon ngã nhào vào cánh tay chàng và dâng hết mọi thứ cho Danny xử lý. Sau đó, khi Danny đã giúp xử lý một trong hai cô gái và nửa chỗ rượu vang, một vụ ẩu đả thực sự ngoạn mục xảy ra. Danny mất một cái răng, còn áo Pilon bị xé toạc. Hai cô gái đứng cạnh thét lên the thé, đá loạn xạ bất cứ người nào ngã xuống. Cuối cùng Danny đứng dậy được và húc vào bụng một trong cô gái, cô nàng văng ra cửa kêu ốp ốp như một con ếch. Còn cô kia chôm hai cái xoong rồi theo gót cô trước.

Cả một đỗi sau, Danny và Pilon khóc lóc trước sự bội bạc của đàn bà.
“Huynh không biết bọn đàn bà gian ngoan thế nào đâu,” Danny nói với vẻ thông thái.
“Tôi biết thừa,” Pilon nói.
“Huynh không biết.”
“Tôi biết thừa.”
“Bốc phét.”
Thêm một vụ ẩu đả nữa nổ ra, lần này thì không mấy ngoạn mục.

Sau chuyện đó, Pilon cảm thấy ổn hơn khi nghĩ tới khoản tiền thuê nhà không trả. Chẳng phải chàng đã tiếp đãi rất tử tế chủ nhà của chàng sao?

Một vài tháng trôi qua. Pilon lại bắt đầu lo lắng về tiền thuê nhà. Càng ngày, nỗi âu lo càng trở nên không chịu đựng nổi. Cuối cùng, trong tuyệt vọng, chàng rửa mực ống cho lão Chin Kee suốt một ngày và được trả hai đô la. Tối đến chàng cột cái khăn tay đỏ của mình quanh cổ, đội cái mũ đáng kính của cha mình và bắt đầu leo lên đồi để trả hai đô la còn nợ cho Danny.

Nhưng trên đường đi chàng mua hai ga lông rượu. “Thế này sẽ hay hơn đấy,” chàng nghĩ bụng. “Nếu mình đưa hắn tiền mặt thì sẽ không thể hiện mình cảm thấy tình bạn bè nồng ấm thế nào. Nhưng một món quà thì có. Và mình sẽ bảo hắn hai ga lông này hết năm đô la.” Chuyện này thật ngớ ngẩn, Pilon biết điều đó, nhưng chàng tự phỉnh phờ mình. Chẳng ai ở Monterey này rành giá rượu hơn Danny.

Pilon lâng lâng tiến bước. Lòng chàng đã quyết; mũi chàng hướng thẳng về phía nhà Danny. Chân chàng chuyển động, không nhanh, nhưng đều đặn, đúng hướng. Mỗi cánh tay chàng xách một túi giấy, trong mỗi túi là một ga lông rượu.

Hoàng hôn tim tím, đó là thời khắc ngọt ngào khi giấc ngủ ngày đã qua, và buổi tối của hoan lạc và hàn huyên chưa bắt đầu. Những thân cây thông in hình rất sẫm trên nền trời, và bóng tối che khuất mọi đồ vật trên mặt đất; nhưng bầu trời lại sáng rỡ thảm sầu như ký ức. Lũ mòng lười nhác bay về tổ từ những mỏm đá ngoài biển sau một ngày thăm viếng các nhà máy cá hộp vùng Monterey.
Pilon là người yêu cái đẹp và tin vào sự thần bí. Chàng ngước mặt lên trời, linh hồn chàng rời bỏ thân thể bay bổng nhập vào ánh tà dương. Chàng Pilon không quá hoàn hảo đó -  kẻ lắm toan tính và hay đánh lộn, kẻ thường say xỉn và ưa nguyền rủa – tiếp tục chậm chạp lê bước; nhưng còn một Pilon trâm thầm và sáng láng lại bay lên cùng lũ mòng biển, nơi chúng tắm trên những đôi cánh thiên thần mong manh vào buổi tối. Chàng Pilon đó đẹp đẽ, và ý nghĩ của chàng không mang chút tỳ vết ích kỷ hay dục vọng nào. Những tư tưởng của chàng đáng được biết đến.

“Đức Chúa Cha của chúng ta đang ngự trong buổi tối này,” chàng nghĩ. “Những cánh chim này bay ngang vầng trán đức Cha. Ôi chim thân yêu, ôi mòng biển thân yêu, ta yêu các ngươi biết bao. Những đôi cánh khoan thai của các ngươi vỗ về lòng ta như bàn tay của một ông chủ dịu dàng vỗ về cái bụng căng đầy của một con chó đang ngủ, như bàn tay của Đức Ki-tô vỗ về những mái đầu trẻ nhỏ. Ôi chim thân yêu,” chàng nghĩ, “hãy bay về với Đức Mẹ Phiền Muộn Ngọt Ngào cùng với trái tim rộng mở của ta.” Và rồi chàng thốt lên những lời đáng yêu nhất chàng biết, “Ave Maria, gratia plena[1]-”

Đôi chân của chàng Pilon xấu xa đã thôi chuyển dịch. Sự thật là chàng Pilon xấu trong giây phút ấy đã ngừng tồn tại. (Hãy nghe điều này, hỡi vị thiên thần đang nghiêng tai theo dõi!) Xưa không có, nay không có, và chưa bao giờ có một linh hồn nào tinh khiết hơn linh hồn của Pilon ở giây phút đó. Con chó trâu xấu xa của Galvez đến bên cặp giò bỏ ngỏ của Pilon trong bóng tối. Nhưng nó chỉ ngửi ngửi rồi bỏ đi mà không đớp cặp giò đó.

Một linh hồn đã được gột rửa và cứu rỗi là một linh hồn gặp nguy hiểm gấp đôi, vì mọi sự trong thế gian đều âm mưu chống lại một linh hồn như thế. Thánh Augustine nói, “Ngay cả những cọng rơm dưới đầu gối ta cũng la hét để khiến ta xao lãng việc cầu nguyện.”

Linh hồn của Pilon lại không hề được trang bị để chống lại trí nhớ của chính chàng; vì, trong lúc ngắm lũ chim, chàng nhớ ra rằng bà Pastano thỉnh thoảng sử dụng mòng biển để làm món tamale[2] của bà, và ký ức đó khiến chàng đói bụng, và cơn đói làm linh hồn chàng ngã nhào khỏi bầu trời. Pilon đi tiếp, một lần nữa chàng lại là một sự trộn lẫn khéo léo giữa cái thiện và cái ác. Con chó trâu xấu xa của Galvez gầm gừ lởn vởn quanh chàng, nuối tiếc vì đã bỏ qua một cơ hội hoàn hảo để đợp giò Pilon

Pilon khuỳnh tay cho mấy cái chai bớt nặng.

Có một thực tế đã được xác thực và ghi nhận trong nhiều câu chuyện; đó là linh hồn nào có khả năng làm những điều thiện vĩ đại nhất thì cũng có thể làm những điều ác vĩ đại nhất. Có ai báng bổ Chúa hơn một linh mục vừa bị rút phép thông công? Còn ai ham nhục dục hơn một kẻ mới đó hãy còn trinh? Tuy nhiên, nhìn bề ngoài thì khó mà biết được điều này.

Pilon, mới từ Thiên đàng trở về, mặc dù chàng không hay biết điều đó, một mình hứng chịu những cơn gió rét buốt, phơi mình trước tất cả những lực lượng hắc ám đầy rẫy trong màn đêm vây quanh chàng. Đúng, chân chàng vẫn di chuyển về phía nhà Danny, nhưng những thành ý và sự quyết tâm thì đã biến mất. Đôi chân chàng chỉ chờ đợi cơ hội nhỏ nhặt nhất để trở bước. Pilon đã bắt đầu nghĩ tới chuyện với hai ga lông rượu thì chàng có thể say xỉn kỳ tuyệt thế nào; chưa kể, chàng còn có thể say rất lâu với hai ga long ấy.

Trời đã sâm sẩm tối. Không còn nhìn thấy con đường đất hay hai con mương hai bên vệ đường. Cũng chẳng thể trách ai khi vào đúng cái giờ khắc mà những manh nha toan tính của Pilon đang chấp chới như một cái lông chim giữa một bên là lòng hào hiệp và bên kia là sự ích kỷ, thì vào đúng cái giờ khắc ấy Pablo Sanchez lại tình cờ ngồi dưới con mương bên vệ đường ước ao có một điếu thuốc và một ly rượu.

Ôi chao, triệu triệu con chiên, họ phải chiến đấu khổ sở với nhau như thế nào mới đến được bên ngai vàng của Chúa.

Thoạt tiên Pablo nghe tiếng chân, rồi thấy một dáng người nhờ nhờ, và nhận ra Pilon. “Này, amigo,” chàng nồng nhiệt gọi. “Chẳng hay huynh mang gì mà nặng thế?”

Pilon đứng sững lại, quay mặt về phía con mương. “Tôi tưởng huynh ở tù,” chàng nghiêm nghị nói. “Tôi nghe nói chuyện con ngỗng.”
“Thì tôi có ở tù mà, Pilon,” Pablo vui vẻ nói. “Nhưng tôi không được đón tiếp tử tế lắm. Quan tòa bảo vào tù chẳng ích gì cho tôi, còn cảnh sát nói tôi ăn nhiều hơn suất của ba người. Và thế là,” chàng tự hào kết thúc, “tôi được tại ngoại”.

Pilon được giải cứu khỏi sự ích kỷ. Đúng chàng không mang rượu đến nhà Danny, nhưng ngay lập tức chàng mời Pablo chia sẻ chỗ rượu đó ở căn nhà thuê. Nếu có hai lối đi rộng rãi rẽ ra từ chính lộ của cuộc đời mà ta chỉ có thể chọn một, thì ai dám nói chắc lối nào tốt hơn?

Pilon và Pablo khấp khởi bước vào căn nhà nhỏ. Pilon thắp một ngọn nến và lấy hai hũ trái cây để làm ly.
“Chúc sức khỏe!” Pablo nói.
Salud![3]” Pilon nói.
Và vài khắc sau, “Salud!” Pablo nói.
“Cạn chén nào!” Pilon nói.
Họ nghỉ một lúc. “Chén nữa nhé,” Pilon nói.
“Trăm phần trăm,” Pablo đáp.

Hai ga lông là rất nhiều rượu, kể cả đối với hai chàng paisano. Về mặt tinh thần bình rượu có thể chia thành các nấc thang như sau: Ngay dưới cổ chai thứ nhất, đối thoại nghiêm túc và tập trung. Xuống thêm năm phân, ký ức buồn dịu ngọt. Tám phân nữa, suy ngẫm về những mối tình đã qua và có hậu. Thêm hai phân rưỡi, suy ngẫm về những mối tình đã qua và cay đắng. Đáy bình thứ nhất, buồn bã vẩn vơ không định hướng. Cổ bình thứ hai, chán chường đen tối, báng bổ. Xuống hai ngón tay nữa, bài ca chết chóc hoặc sự hoài vọng. Thêm một ngón tay cái, bất cứ bài ca còn lại nào mà một trong hai người thuộc. Cầu thang dừng ở đây vì lúc này con đường sẽ rẽ đôi và không ai biết chắc cái gì sẽ xảy ra. Kể từ điểm này bất cứ chuyện gì cũng có thể.

Nhưng ta hãy quay lại nấc thang đầu tiên, chỗ còn đối thoại nghiêm túc và tập trung, vì Pilon ra đòn chính ở chỗ đó.
“Pablo,” chàng nói, “chẳng lẽ huynh không bao giờ chán cảnh ngủ vất vưởng dưới cống, ướt át và vô gia cư, không bằng hữu và cô độc?”
“Không,” Pablo nói.

Pilon dịu giọng thuyết phục. “Tôi cũng từng nghĩ y như vậy, bạn thân mến ạ; khi tôi còn là một kẻ cầu bất cầu bơ, tôi cũng hài lòng như huynh, vì tôi không hề biết rằng có một căn nhà nhỏ, có mái nhà trên đầu, và một cái vườn thì sung sướng đến dường nào. Pablo ôi, thế này mới thật là sống.”
“Cũng khá hay,” Pablo đồng ý.

Pilon dấn tới. “Thấy chưa, Pablo, huynh có muốn thuê một phần nhà của tôi không? Huynh sẽ không còn phải nằm trên sàn đất lạnh lẽo nữa. Cát thô dưới cầu cảng cùng với những cua còng sẽ không bao giờ chui vào giày của huynh nữa. Huynh có muốn chuyển tới đây sống cùng tôi không?”
“Cũng được” Pablo nói.
“Xem nào, huynh chỉ phải trả mười lăm đô một tháng! Và huynh có thể sử dụng toàn bộ cái nhà trừ giường của tôi, và toàn bộ khu vườn. Nghĩ mà xem, Pablo. Và nếu có ai đó muốn gửi huynh một bức thư, người ấy sẽ có chỗ để mà gửi thư tới.”
“Ừ”, Pablo nói. “Được đấy.”

Pilon thở ra nhẹ nhõm. Đến giờ chàng mới nhận ra gánh nợ đối với Danny đã trĩu trên vai mình thế nào. Mặc dầu chàng gần như chắn chắn rằng Pablo sẽ chẳng bao giờ trả đồng tiền thuê nhà nào nhưng việc ấy không làm sứt mẻ thắng lợi của chàng. Nếu Danny có đòi tiền, Pilon có thể nói, “Tôi sẽ trả tiền, khi nào Pablo trả.”

Họ chuyển tới nấc thang kế tiếp và Pilon nhớ khi còn là một cậu bé con chàng đã hạnh phúc như thế nào. “Hồi ấy chẳng có gì phải lo lắng, Pablo ạ. Tôi không biết đến tội lỗi. Tôi vui sướng làm sao.”
“Kể từ lúc đó chúng ta chưa bao giờ vui sướng,” Pablo buồn bã đồng ý.



[1] “Lạy đức mẹ Maria lòng lành” (tiếng Tây Ban Nha).
[2] Một món ăn Mexico làm từ thịt băm, gói trong lớp áo bắp ngô, rồi hấp lên.
[3] Chúc sức khỏe (tiếng Tây Ban Nha).

Tuesday, November 20, 2012

Thị trấn Tortilla Flat - Chương 1



Thị trấn Tortilla Flat
John Steinbeck
Người dịch: Lâm Vũ Thao


Chương I

Trở về nhà sau chiến tranh, Danny thấy mình trở thành người thừa kế như thế nào, và chàng tuyên thệ bảo vệ những kẻ bất lực ra sao


Giải ngũ về nhà, Danny được tin mình là người thừa kế và là người sở hữu bất động sản. Ông cụ, tức là ông nội chàng, đã mất để lại cho Danny hai căn nhà nhỏ ở Tortilla Flat.

 Nghe tin này, Danny cảm thấy trách nhiệm sở hữu hơi đè nặng mình. Thậm chí trước khi đi ngó khối tài sản của mình một cái, chàng mua một ga lông vang đỏ rồi một mình nốc gần hết chỗ ấy. Khi đó thì gánh nặng trách nhiệm rời bỏ chàng, và bản chất tệ hại của chàng trỗi dậy. Chàng la hét, đập gãy mấy cái ghế trong một tiệm bi da ở đường Alvarado; chàng dính vào hai trận ẩu đả ngắn ngủi nhưng hoành tráng. Không ai để ý mấy đến Danny. Cuối cùng cặp giò vòng kiềng liêu xiêu đưa chàng tới cầu cảng, ở đó vào lúc tinh mơ này, các ngư dân người Ý mang ủng cao su đang đi ra biển. 

Ác cảm sắc tộc làm Danny mất khôn. Chàng đe dọa các ngư dân. “Lũ mafia Sicile,” chàng gọi họ, rồi “Đồ cặn bã của hòn đảo ngục tù,” và “ Đồ chó của chó của chó.” Chàng gào, “Chinga tu madre, Piojo.”[1] Chàng trỏ ngón cái vào mũi và ra những cử chỉ tục tĩu dưới thắt lưng. Các ngư dân chỉ cười xòa, trở mái chèo, nói, “Chào Danny. Về nhà bao giờ thế? Tối sang chơi nhé. Bọn tôi có vang mới đấy.”
Danny giận lắm. Chàng rống lên, “Pon un condo a la cabeza.”[2]
Họ gọi, “Tạm biệt Danny. Tối nhé.” Rồi họ trèo lên những chiếc ghe nhỏ chèo ra các tàu sáng đèn, khởi động máy, xình xịch chạy đi. 

Danny bị sỉ nhục. Chàng cuốc bộ ngược lại đường Alvarado, vừa đi vừa đập các cửa sổ, và ở dãy phố thứ hai thì bị một viên cảnh sát tóm tại trận. Vì lòng kính trọng pháp luật nên Danny im mồm. Nếu không phải vừa mới giải ngũ sau chiến thắng trước quân Đức, ắt hẳn Danny sẽ bị kết án tù sáu tháng. Rốt cuộc quan tòa chỉ nhốt chàng ba mươi ngày.

Và thế là Danny ngồi trên chiếc giường xếp trong nhà tù thành phố Monterey suốt một tháng. Thỉnh thoảng chàng vẽ hình bậy bạ lên vách, và đôi khi chàng ngẫm nghĩ về sự nghiệp nhà binh của mình. Ở đó, trong xà lim nhà tù thành phố, thời gian trĩu nặng trên tay Danny. Thỉnh thoảng một gã say bị tống vào một đêm, nhưng nói chung tình hình tội phạm ở Monterey lặng lờ nên Danny khá là cô độc. Thoạt tiên lũ rệp làm chàng khó chịu, nhưng khi chúng quen với vị của chàng và chàng dần quen với những vết cắn của chúng, hai bên chung sống hòa bình.

Chàng bắt đầu chơi một trò hí kịch. Chàng bắt một con rệp, dập nó lên tường, vẽ một vòng quanh nó bằng bút chì và đặt tên cho nó là “Thị trưởng Clough.” Rồi chàng bắt những con khác và đặt tên chúng theo Hội đồng Thành phố. Chẳng mấy chốc chàng đã có một bức vách trang trí bằng những con rệp bị dập, mỗi con được đặt tên theo một nhân vật quyền cao chức trọng ở địa phương. Chàng vẽ thêm tai và đuôi, cho chúng những cái mũi rõ to và cả ria mép. Tito Ralph, viên cai ngục phát hoảng; nhưng ông không thóc mách với ai vì Danny không đưa vị quan tòa đã phạt giam chàng, cũng như không viên cảnh sát nào vào danh sách. Chàng dành cho pháp luật sự tôn trọng đáng kể. 

Một đêm nọ, cảnh tù cô quạnh, Tito Ralph vào xà lim của Danny mang theo hai chai rượu vang. Một tiếng sau ông ta ra ngoài lấy thêm rượu, có Danny tháp tùng. Trong tù chả có gì vui. Họ ngồi lì ở quán của Torrelli, chỗ họ mua rượu, cho tới lúc Torrelli tống cổ họ ra. Sau đó Danny bò lên giữa rừng thông ngủ khì, trong khi Tito Ralph loạng choạng về báo cáo vụ vượt ngục.

Quãng giữa trưa, mặt trời chói chang đánh thức Danny, chàng quyết định trốn cả ngày để tránh bị truy đuổi. Chàng chạy và lẩn sau những bụi cây. Chàng thò ra khỏi những đám bụi thấp như một con cáo bị săn. Tối đến, khi các quy luật của cuộc chơi đã được thỏa mãn, chàng đi ra làm công chuyện của mình.

Công chuyện của Danny khá giản dị. Chàng tới cửa sau một tiệm ăn. “Có tí bánh mì cũ nào không, tôi xin cho con chó?” chàng hỏi đầu bếp. Trong khi con người cả tin đó đang gói ghém đồ ăn, Danny thó hai lát thịt nguội, bốn quả trứng, một miếng sườn cừu và một cái vỉ đập ruồi.
“Lúc nào đó tôi sẽ trả cho bác,” chàng nói.
“Không cần phải trả tiền cho đồ ăn thừa đâu. Đằng nào tôi cũng vứt đi nếu cậu không lấy kia mà.”

Nhờ thế Danny cảm thấy nhẹ nhõm hơn về chuyện ăn trộm. Nếu họ nghĩ như vậy, thì bề ngoài chàng vô tội. Chàng quay lại quán của Torrelli, đổi bốn quả trứng, miếng  sườn cừu và cái vỉ đập ruồi lấy một ly rượu nho rồi rút vào rừng để nấu bữa tối.

Đêm tối và ẩm. Sương giăng như tấm màn r giữa đám cây thông đen sẫm canh giữ ranh giới đất liền của Monterey. Danny rúc đầu xuống vội vã tìm chỗ trú ẩn trong rừng. Chàng nhận ra một bóng người khác vội vã phía trước mình; và khi khoảng cách thu hẹp, chàng nhận ra dáng đi hấp tấp của anh bạn cũ Pilon. Danny là người hào hiệp, nhưng chàng sực nhớ chàng đã bán sạch cả đồ ăn, chỉ còn mỗi hai lát thịt nguội và túi bánh mì cũ.

“Mình sẽ qua mặt Pilon,” chàng quyết định. “Cậu ta bước đi như một người mang đầy gà tây rô ti và những thứ tương tự.”
Rồi đột nhiên Danny để ý thấy tay cứ Pilon túm ngang ngực áo khoác  một cách thật đáng yêu.
“Này, Pilon, amigo[3]!” Danny kêu lên.
Pilon hấp tấp đi nhanh hơn. Danny rảo bước chạy. “Pilon, người bạn nhỏ của tôi! Huynh đi đâu mà quá đỗi vội vàng vậy?”

Chẳng đặng đừng, Pilon đành chờ. Danny tiến lại gần đầy cảnh giác, nhưng giọng chàng sôi nổi. “Tôi đi tìm huynh, hỡi người bạn thiên thần nhỏ bé yêu quý nhất của tôi, vì hãy xem này, tôi có ở đây hai miếng sườn tuyệt hảo lấy ra từ con lợn của chính Đức Chúa trời, và cả một túi bánh mì trắng ngọt ngào. Hãy chia sẻ lộc cùng tôi, hỡi Pilon, bạn bé nhỏ.”

Pilon nhún vai. “Chia thì chia,” chàng lầm bầm cáu kỉnh. Họ cùng nhau đi vào rừng. Pilon bối rối. Rốt cuộc chàng đứng lại, đối diện bạn mình. “Danny này,” chàng rầu rĩ hỏi, “Làm thế nào mà huynh biết tôi có một chai rượu mạnh dưới áo khoác?”

“Rượu mạnh ư?” Danny kêu lên. “Huynh có rượu mạnh sao? Chắc là để dành cho một bà mẹ già ốm nào đó,” chàng ngây thơ nói. “Chắc là huynh dành nó cho Đức Chúa Jesus khi Ngài trở lại. Tôi là kẻ nào, bằng hữu của huynh, mà có thể phán đoán chai rượu này được mang đến đâu. Vả lại tôi cũng chẳng khát. Tôi sẽ không đụng đến chai rượu này. Huynh hãy cứ xơi miếng lợn rô ti to đùng này của tôi,  còn rượu của huynh, thì huynh cứ giữ lấy.”

Pilon nghiêm nghị đáp lời. “Danny, chia rượu với huynh thì cũng được thôi, năm mươi năm mươi. Nghĩa vụ của tôi là phải trông chừng huynh không được uống hết.”

Tới đó thì Danny bỏ dở đề tài. “Nơi quang quẻ này tôi sẽ nấu món thịt lợn, còn huynh hãy nướng những chiếc bánh đường trong túi. Hãy đặt rượu của huynh chỗ này, Pilon. Tốt hơn là ngay đây, để ta có thể nhìn thấy nó, và nhìn thấy nhau.”

Họ nhóm một đống lửa, nướng thịt nguội, và ăn chỗ bánh mì cũ. Chai rượu mạnh nhanh chóng cạn. Ăn xong, họ ngồi quanh đống lửa và nhấp nhấp cái chai như những con ong kiệt sức. Rồi sương buông lên người họ, hơi ẩm làm áo khoác xám đi. Gió buồn bã thở dài trong rừng thông xung quanh.

Một đỗi sau, một nỗi cô đơn choàng lấy Danny và Pilon. Danny nhớ về những người bạn biệt tăm biệt tích.

“Giờ này Arthur Morales ở đâu?” Danny hỏi, lật ngửa lòng bàn tay và chìa hai cánh tay về phía trước. “Chết ở Pháp rồi,” chàng tự trả lời, lật úp hai lòng bàn tay lại và tuyệt vọng buông thõng hai cánh tay. “Chết cho tổ quốc của chàng. Chết ở một vùng đất lạ. Khách lạ đi ngang mồ chàng mà có hay đâu Arthur Morales nằm đó.” Chàng lại nhấc hai lòng bàn tay thẳng lên trời. “Pablo ở đâu, con người tốt bụng đó?”

“Ở tù chứ ở đâu,” Pilon nói. “Pablo ăn cắp một con ngỗng giấu trong bụi; rồi con ngỗng đó cắn Pablo nên cậu ta la lên và thế là bị bắt. Bây giờ thì ngồi tù sáu tháng.”

Danny thở dài và đổi đề tài, vì chàng nhận ra rằng chàng đã hoang phí mối quen biết duy nhất phù hợp cho màn diễn thuyết. Nhưng nỗi cô đơn vẫn còn đầy ứ trong chàng đòi hỏi một lối ra. “Ta ngồi nơi đây,” cuối cùng chàng bắt đầu.
“- lòng ta quắt quay,” Pilon nối vần.
“Không, đây không phải là một bài thơ,” Danny nói. “Ta ngồi nơi đây, không nhà không cửa. Ta đã cống hiến đời ta cho tổ quốc, mà giờ đây trên đầu ta chẳng có lấy một mái nhà.”
“Mà cũng chưa bao giờ có ,” Pilon láu táu thêm vào.

Danny mơ màng uống cho tới lúc Pilon chạm vào khuỷu tay chàng và lấy lại cái chai. “Chuyện ấy nhắc tôi nhớ,” Danny nói, “câu chuyện một người có đến hai cái nhà thổ -” Chợt chàng há hốc miệng. “Pilon!” chàng kêu lên. “Pilon! Con vịt úc núc nhỏ bé, người bạn bé bỏng của tôi. Tôi quên phứt đi mất! Tôi chính là người thừa kế! Tôi có hai căn nhà.”
“Nhà thổ ư?” Pilon hỏi giọng tràn đầy hy vọng. “Huynh là một tay nói dối say mèm,” chàng tiếp.
“Không phải, Pilon. Tôi nói thật đấy. Ông cụ mất. Tôi là người thừa kế. Tôi, đứa cháu trai được yêu quý nhất.”
“Huynh là cháu trai duy nhất mà,” Pilon, con người thực tế, nói. “Mấy căn nhà này ở đâu?”
“Huynh biết nhà ông cụ ở Tortilla Flat không, Pilon?”
“Ở ngay vùng Monterey này sao?”
“Đúng rồi, ở đây, ngay Tortilla Flat.”
“Mấy căn nhà này còn ngon lành không?”
Danny rụt người lại, kiệt sức vì cảm xúc dâng trào. “Tôi không biết nữa. Tôi quên là mình sở hữu chúng.”

Pilon ngồi lặng yên tiêu hóa tin này. Sắc mặt chàng trở nên u ám. Chàng ném một nắm lá thông vào đống lửa, ngắm ngọn lửa bùng lên nắm lá rồi lụi đi. Cả một hồi lâu chàng nhìn vào mặt Danny với vẻ âu lo sâu sắc, và rồi Pilon thở dài rầm rĩ, rồi lại thở dài. “Giờ thì hết rồi,” chàng buồn bã nói. “Giờ thì những quãng thời gian tươi đẹp đã hết. Bạn bè của huynh sẽ than khóc, nhưng than khóc cũng chẳng ích gì.”

Danny đặt chai xuống, Pilon nhặt lên, đặt nó trong lòng.
“Bây giờ thì cái gì đã hết?” Danny căn vặn. “Huynh định nói gì?”
“Đây không phải là lần đầu,” Pilon tiếp tục. “Lúc hàn vi người ta nghĩ, ‘Nếu có tiền mình sẽ chia sẻ với các bạn tốt của mình.’ Nhưng khi có tiền thì từ tâm vỗ cánh bay đi. Huynh thì cũng thế thôi, người-đã-từng-là-bạn của tôi ạ. Huynh được nâng lên cao hẳn so với bạn bè của mình. Huynh là một người có tài sản. Huynh sẽ quên bằng hữu của mình, những người từng chia sẻ mọi thứ cùng huynh, chia sẻ cả rượu mạnh của họ.”

Lời lẽ của Pilon làm Danny khó chịu. “Tôi không phải thế,” chàng kêu lên. “Tôi sẽ không bao giờ quên huynh, Pilon ạ.”
“Giờ thì huynh nghĩ vậy,” Pilon lạnh lẽo nói. “Nhưng khi huynh có hai căn nhà để ngủ, thì huynh sẽ thấy. Pilon sẽ chỉ là một paisano kiết xác mà thôi, trong khi huynh thì chè chén với ngài thị trưởng.”

Danny chếnh choáng đứng dậy, cố giữ cho mình đứng thẳng bằng cách tựa vào một thân cây. “Pilon à, tôi thề, cái gì của tôi cũng là của huynh. Khi tôi có một mái nhà, huynh cũng có một mái nhà. Cho tôi một hớp.”

“Tôi phải thấy thì mới tin được,” Pilon nói bằng giọng uể oải. “Nếu sự việc đúng như vậy thì đúng là một kỳ quan thế giới. Người ta sẽ đi cả nghìn dặm để chiêm ngưỡng. Và ngoài ra thì, chai rỗng rồi.”




[1] Một câu chửi rất tục tiếng Tây Ban Nha.
[2] Một câu chửi tục tiếng Tây Ban Nha khác.
[3] Nghĩa là “bạn”, tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản.