Friday, June 17, 2011

Ghi vội từ Trung Quốc - phần 2

Ngày hôm nay là ngày đầu tiên của hội thảo. Buổi sáng, tôi tỉnh từ 5 giờ vì vẫn còn bị lệch giờ với Mỹ. Kéo rèm cửa sổ nhìn ra, bên ngoài trời đã hửng sáng nhưng vẫn không có mặt trời. Bên dưới đường, mặt đất ẩm ướt; có nhiều người đi tập thể dục sớm – họ cũng mặc áo may-ô, quần cộc, đi giày ba-ta, vừa đi dọc các vỉa hè vừa vẩy tay theo lối tập dịch cân kinh mà nhiều người tập thể dục buổi sớm ở HN cũng hay tập. Nhìn thấy thế, tôi lại nghĩ: người dân ở đâu thì cũng như nhau – chủ yếu vẫn chỉ muốn no ấm, khỏe mạnh, nuôi con cái học hành nên người. Rồi lại nghĩ: nhưng không ai được chọn tổ quốc mà mình sinh ra, và số phận của một người không bao giờ có thể tách rời hoàn toàn số phận của tổ quốc họ, dân tộc họ.

Chúng tôi ăn sáng trong khách sạn rồi cùng lên xe ô tô tới đại học Đông Á, nơi tổ chức hội thảo. Bên trong sảnh, cái đầu tiên đập vào mắt tôi là hai dãy bàn lớn bày sách giáo khoa ngành công tác xã hội mà trường Đông Á đã in. Các sách này có một phần là sách của các tác giả Trung Quốc; phần lớn còn lại là sách dịch từ tiếng Anh hoặc sách mà một tác giả Trung Quốc là đồng tác giả với tác giả nước ngoài. Chỉ nhìn thì biết là họ chọn sách rất kỹ và tương đối tốt; ví dụ như sách về family therapy thì dùng của Michael Nichols và Minuchin. Tôi hỏi họ sách này của trường in bằng quy trình và kinh phí như thế nào thì những sinh viên đứng giúp việc bán sách ở đó không biết tiếng Anh đủ để trả lời; tôi rất tò mò vì nhìn vào bìa sách thì có thể suy đoán là dường như trường Đông Á đã lên một kế hoạch đầy đủ về một bộ sách tổng thể mà họ cần dịch, rồi tiến hành dịch và in sách để bán cho sinh viên chứ không dựa vào các nỗ lực manh mún của từng người dịch. Ở VN, điều này chưa xảy ra. Cái mơ ước của tôi cho đến gần đây vẫn là làm thế nào để ra được một bộ sách giáo khoa tương đối chuẩn về ngành CTXH cho sinh viên VN vì số sách hiện có về ngành này ở VN có thể đếm trên đầu ngón tay và chất lượng thấp. Hiện tại, một nhóm giáo viên và sinh viên CTXH mà tôi tham gia đang bắt tay dịch thử một vài cuốn sách mặc dù chưa rõ đầu ra. Việc dịch sách giáo khoa ở VN rất khó: những cá nhân như tôi, dù muốn, không thể đứng ra in sách mà cần phải có một NXB nào đó đứng ra đại diện mua bản quyền. Nhưng các NXB hầu như không muốn làm sách giáo khoa dịch từ nước ngoài vì khó có lãi và mất công. Giá có ai tài trợ cho chúng tôi làm một bộ sách chuẩn thì tốt.

Dĩ nhiên TQ đã bắt đầu phát triển ngành CTXH trước chúng ta khoảng gần 2 thập kỷ. Năm 1978, họ đã phê duyệt việc đào tạo cử nhân về CTXH và đến năm 2010, họ có 200 chương trình cử nhân, 58 chương trình thạc sỹ; mỗi năm đào tạo ra 50 ngàn cử nhân và 15 ngàn thạc sỹ. Chính phủ TQ đặt kế hoạch là đến năm 2020, họ sẽ có 3 triệu nhân viên CTXH. Tuy thế, đây cũng là một dạng quyết định duy ý chí khác. Giáo sư X ở Anh ngồi cạnh tôi trong hội nghị đã có nhiều năm làm việc với TQ; ông nói, chương trình của TQ thực sự là tồi tệ; bởi vì giáo viên không được đào tạo về CTXH lại đi dạy sinh viên; và sinh viên thì hầu như không có thực hành; ra trường rồi ngơ ngơ ngác ngác. Tình trạng này có vẻ không xa lạ. Ở VN bây giờ, chúng ta cũng đang đối mặt với chính những nguy cơ này.

Chúng tôi bắt đầu họp lúc 8 giờ sáng. Trường Đông Á là một trường nhỏ mặc dù khoa CTXH của nó được đánh giá là một trong những khoa rất tốt ở TQ. Xem cách họ tổ chức hội thảo này và cách phát biểu khai mạc của các vị chức sắc trong trường thì thấy người TQ đã tiến hơn VN một bước trong văn hóa họp hành. Họ đã biết học người Mỹ và châu Âu ở chỗ đi thẳng vào vấn đề, nói ngắn gọn, có trọng điểm, theo đúng giờ và chương trình, rồi rút lui. Không trình bày lan man, chung chung, nghe phát chán vì chẳng hiểu người nói nói gì như tôi đã nhiều lần chứng kiến ở VN. Tuy thế, đến phần hỏi đáp, tôi thấy sinh viên TQ và cả cán bộ TQ giống hệt người VN ở chỗ hỏi chủ tọa chủ yếu để thể hiện, và cũng kính thưa kính gửi một cách hết sức dài dòng, e dè. Các câu hỏi được đặt ra đều là những câu hỏi hết sức thông thường theo cái lối không lo lắng về ý tưởng, vấn đề, khoa học, mà thường lo lắng về con người, quan hệ, thể chế, chuyện bên lề. Đấy là những cách tiếp cận vấn đề hết sức phí phạm; nhưng chuyện này nói ra thì dài.

Buổi chiều, hội thảo bắt đầu chia các phiên họp riêng theo lĩnh vực. Tôi ngồi ở phòng hội thảo về phúc lợi trẻ em và gia đình. Có hai giáo sư – một của Trung Quốc, một của Hồng Kông – trình bày về hai vấn đề gần nhau nhưng không trùng nhau là “child abuse” và “child victimization”. Người thứ nhất là một giáo sư trong biên chế của nền giáo dục TQ và người này nói rằng tỷ lệ child abuse ở TQ là 5%; người thứ hai làm một nghiên cứu độc lập theo lối phương Tây và kết luận rằng child maltreatment ở TQ lên tới 28%, riêng sexual victimization là 8%. Hai báo cáo hoàn toàn không liên quan và khi tôi hỏi họ về sự bất đồng các con số và cách họ đo “child abuse” trong cái báo cáo thứ nhất thì câu trả lời đưa ra không nêu rõ nguồn số liệu và cách đo. Tôi rất tò mò muốn biết là TQ đã làm một điều tra toàn quốc nào về vấn đề này chưa, nhất là với lạm dụng tình dục trẻ em. Việt Nam cũng chưa có con số thống kê chính thức về các vấn đề này, nhất là đối với lạm dụng tình dục. Bản thân diễn ngôn về các vấn đề này cũng đang trong giai đoạn hình thành và xã hội hóa (đây đủ là một đề tài khoa học hết sức hay).

Có một bài trình bày đáng chú ý là bài của nhóm tác giả ở ĐH North Carolina về việc ứng dụng một mô hình đào tạo các kỹ năng xã hội-tình cảm cho trẻ em Mỹ vào Trung Quốc. Một bài khác nói về kỹ năng phỏng vấn trẻ em từng bị lạm dụng tình dục. Đối với VN bây giờ, đào tạo kỹ năng và thực hành có lẽ là điều cần hơn cả. Triết lý, lí luận thì người VN có lẽ còn giỏi hơn người các nước; chúng ta phê chuẩn và có đủ loại văn bản đảm bảo phúc lợi trẻ em và gia đình nhưng việc thực hành thì hầu như rất yếu bởi vì thiếu kỹ năng. Tôi nghĩ từ lâu, nếu về nông thôn giảng giải cho người dân về việc không được bạo hành gia đình thì còn lâu mới giải quyết được vấn đề; nhưng nếu dạy cho phụ nữ các kỹ năng đối phó với cơn giận của chồng, hoặc dạy các ông chồng cách quản lý cơn giận, vv… thì có thể xoay chuyển tình thế tốt hơn. Hiện tại, theo các thống kê khác nhau, cứ 2 đến 3 người phụ nữ VN thì có 1 người từng chịu bạo hành gia đình trong cuộc đời họ - bao gồm cả bạo hành thể chất và tinh thần.

Buổi tối có chiêu đãi ở một nhà hàng. Có mấy phòng ăn khác nhau và người nước ngoài nói chung ngồi với người nước ngoài, người TQ ngồi với người TQ, cán bộ to ngồi với nhau, và sinh viên ngồi với sinh viên. Sau một hồi, tôi thấy các lãnh đạo TQ, được tháp tùng bởi cấp dưới, cũng lần lượt đi từng bàn chúc rượu, và uống hết chén này tới chén khác, mặt mũi đỏ văng và có người ngà ngà say. Không khác gì Việt Nam.

Trong ngày hôm nay, cái ý nghĩ lớn nhất của tôi – và không phải một ý nghĩ vui vẻ gì – là sự giống nhau quá mức giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Quốc. Ngoại trừ ngôn ngữ, cách chúng ta ăn mặc, hành xử, suy nghĩ, vv… quá giống người TQ (hoặc là người TQ quá giống ta?). Điều này bản thân nó không phải là một điều xấu tự thân nếu những cái giống đó là những mẫu số chung của một đời sống con người tối ưu; nhưng ở đây có vẻ không phải như vậy. Tôi chưa có thời gian nghĩ kỹ về vấn đề này, chỉ cảm thấy nó hết sức không ổn. Nếu như VN, với tư cách là một dân tộc, muốn có một vị trí và bộ mặt riêng biệt trên thế giới, thì chúng ta phải “thoát TQ” một cách triệt để. Nó không khác gì, làm người phải có tính cách riêng, nhân cách riêng, suy nghĩ riêng; không nên là bản sao bất tự giác của ai khác.

(những ghi chép trên đều là ghi nháp trong ngày)

No comments: