Thị trấn Tortilla Flat
John Steinbeck
Người dịch: Lâm Vũ Thao
Chương I
Trở về nhà sau chiến tranh, Danny
thấy mình trở thành người thừa kế như thế nào, và chàng tuyên thệ bảo vệ những
kẻ bất lực ra sao
Giải ngũ về nhà, Danny được tin mình là
người thừa kế và là người sở hữu bất động sản. Ông cụ, tức là ông nội chàng, đã
mất để lại cho Danny hai căn nhà nhỏ ở Tortilla Flat.
Nghe tin này, Danny cảm thấy trách nhiệm sở hữu
hơi đè nặng mình. Thậm chí trước khi đi ngó khối tài sản của mình một cái,
chàng mua một ga lông vang đỏ rồi một mình nốc gần hết chỗ ấy. Khi đó thì gánh
nặng trách nhiệm rời bỏ chàng, và bản chất tệ hại của chàng trỗi dậy. Chàng la
hét, đập gãy mấy cái ghế trong một tiệm bi da ở đường Alvarado; chàng dính vào
hai trận ẩu đả ngắn ngủi nhưng hoành tráng. Không ai để ý mấy đến Danny. Cuối
cùng cặp giò vòng kiềng liêu xiêu đưa chàng tới cầu cảng, ở đó vào lúc tinh mơ
này, các ngư dân người Ý mang ủng cao su đang đi ra biển.
Ác cảm sắc tộc làm Danny mất khôn. Chàng
đe dọa các ngư dân. “Lũ mafia Sicile,” chàng gọi họ, rồi “Đồ cặn bã của hòn đảo
ngục tù,” và “ Đồ chó của chó của chó.” Chàng gào, “Chinga tu madre, Piojo.”[1] Chàng
trỏ ngón cái vào mũi và ra những cử chỉ tục tĩu dưới thắt lưng. Các ngư dân chỉ
cười xòa, trở mái chèo, nói, “Chào Danny. Về nhà bao giờ thế? Tối sang chơi
nhé. Bọn tôi có vang mới đấy.”
Họ gọi, “Tạm biệt Danny. Tối nhé.” Rồi họ
trèo lên những chiếc ghe nhỏ chèo ra các tàu sáng đèn, khởi động máy, xình xịch
chạy đi.
Danny bị sỉ nhục. Chàng cuốc bộ ngược lại
đường Alvarado, vừa đi vừa đập các cửa sổ, và ở dãy phố thứ hai thì bị một viên
cảnh sát tóm tại trận. Vì lòng kính trọng pháp luật nên Danny im mồm. Nếu không
phải vừa mới giải ngũ sau chiến thắng trước quân Đức, ắt hẳn Danny sẽ bị kết án
tù sáu tháng. Rốt cuộc quan tòa chỉ nhốt chàng ba mươi ngày.
Và thế là Danny ngồi trên chiếc giường xếp
trong nhà tù thành phố Monterey suốt một tháng. Thỉnh thoảng chàng vẽ hình bậy
bạ lên vách, và đôi khi chàng ngẫm nghĩ về sự nghiệp nhà binh của mình. Ở đó,
trong xà lim nhà tù thành phố, thời gian trĩu nặng trên tay Danny. Thỉnh thoảng
một gã say bị tống vào một đêm, nhưng nói chung tình hình tội phạm ở Monterey lặng
lờ nên Danny khá là cô độc. Thoạt tiên lũ rệp làm chàng khó chịu, nhưng khi
chúng quen với vị của chàng và chàng dần quen với những vết cắn của chúng, hai
bên chung sống hòa bình.
Chàng bắt đầu chơi một trò hí kịch.
Chàng bắt một con rệp, dập nó lên tường, vẽ một vòng quanh nó bằng bút chì và đặt
tên cho nó là “Thị trưởng Clough.” Rồi chàng bắt những con khác và đặt tên
chúng theo Hội đồng Thành phố. Chẳng mấy chốc chàng đã có một bức vách trang
trí bằng những con rệp bị dập, mỗi con được đặt tên theo một nhân vật quyền cao
chức trọng ở địa phương. Chàng vẽ thêm tai và đuôi, cho chúng những cái mũi rõ
to và cả ria mép. Tito Ralph, viên cai ngục phát hoảng; nhưng ông không thóc
mách với ai vì Danny không đưa vị quan tòa đã phạt giam chàng, cũng như không
viên cảnh sát nào vào danh sách. Chàng dành cho pháp luật sự tôn trọng đáng kể.
Một đêm nọ, cảnh tù cô quạnh, Tito Ralph
vào xà lim của Danny mang theo hai chai rượu vang. Một tiếng sau ông ta ra
ngoài lấy thêm rượu, có Danny tháp tùng. Trong tù chả có gì vui. Họ ngồi lì ở
quán của Torrelli, chỗ họ mua rượu, cho tới lúc Torrelli tống cổ họ ra. Sau đó
Danny bò lên giữa rừng thông ngủ khì, trong khi Tito Ralph loạng choạng về báo
cáo vụ vượt ngục.
Quãng giữa trưa, mặt trời chói chang
đánh thức Danny, chàng quyết định trốn cả ngày để tránh bị truy đuổi. Chàng chạy
và lẩn sau những bụi cây. Chàng thò ra khỏi những đám bụi thấp như một con cáo
bị săn. Tối đến, khi các quy luật của cuộc chơi đã được thỏa mãn, chàng đi ra
làm công chuyện của mình.
Công chuyện của Danny khá giản dị. Chàng
tới cửa sau một tiệm ăn. “Có tí bánh mì cũ nào không, tôi xin cho con chó?”
chàng hỏi đầu bếp. Trong khi con người cả tin đó đang gói ghém đồ ăn, Danny thó
hai lát thịt nguội, bốn quả trứng, một miếng sườn cừu và một cái vỉ đập ruồi.
“Lúc nào đó tôi sẽ trả cho bác,” chàng
nói.
“Không cần phải trả tiền cho đồ ăn thừa
đâu. Đằng nào tôi cũng vứt đi nếu cậu không lấy kia mà.”
Nhờ thế Danny cảm thấy nhẹ nhõm hơn về
chuyện ăn trộm. Nếu họ nghĩ như vậy, thì bề ngoài chàng vô tội. Chàng quay lại
quán của Torrelli, đổi bốn quả trứng, miếng sườn cừu và cái vỉ đập ruồi lấy một ly rượu
nho rồi rút vào rừng để nấu bữa tối.
Đêm tối và ẩm. Sương giăng như tấm màn rủ giữa đám cây thông đen sẫm canh giữ ranh giới đất
liền của Monterey. Danny rúc đầu xuống vội vã tìm chỗ trú ẩn trong rừng. Chàng
nhận ra một bóng người khác vội vã phía trước mình; và khi khoảng cách thu hẹp,
chàng nhận ra dáng đi hấp tấp của anh bạn cũ Pilon. Danny là người hào hiệp,
nhưng chàng sực nhớ chàng đã bán sạch cả đồ ăn, chỉ còn mỗi hai lát thịt nguội
và túi bánh mì cũ.
“Mình sẽ qua mặt Pilon,” chàng quyết định.
“Cậu ta bước đi như một người mang đầy gà tây rô ti và những thứ tương tự.”
Rồi đột nhiên Danny để ý thấy tay cứ Pilon
túm ngang ngực áo khoác một cách thật
đáng yêu.
Pilon hấp tấp đi nhanh hơn. Danny rảo bước
chạy. “Pilon, người bạn nhỏ của tôi! Huynh đi đâu mà quá đỗi vội vàng vậy?”
Chẳng đặng đừng, Pilon đành chờ. Danny
tiến lại gần đầy cảnh giác, nhưng giọng chàng sôi nổi. “Tôi đi tìm huynh, hỡi
người bạn thiên thần nhỏ bé yêu quý nhất của tôi, vì hãy xem này, tôi có ở đây
hai miếng sườn tuyệt hảo lấy ra từ con lợn của chính Đức Chúa trời, và cả một
túi bánh mì trắng ngọt ngào. Hãy chia sẻ lộc cùng tôi, hỡi Pilon, bạn bé nhỏ.”
Pilon nhún vai. “Chia thì chia,” chàng lầm
bầm cáu kỉnh. Họ cùng nhau đi vào rừng. Pilon bối rối. Rốt cuộc chàng đứng lại,
đối diện bạn mình. “Danny này,” chàng rầu rĩ hỏi, “Làm thế nào mà huynh biết
tôi có một chai rượu mạnh dưới áo khoác?”
“Rượu mạnh ư?” Danny kêu lên. “Huynh có
rượu mạnh sao? Chắc là để dành cho một bà mẹ già ốm nào đó,” chàng ngây thơ
nói. “Chắc là huynh dành nó cho Đức Chúa Jesus khi Ngài trở lại. Tôi là kẻ nào,
bằng hữu của huynh, mà có thể phán đoán chai rượu này được mang đến đâu. Vả lại
tôi cũng chẳng khát. Tôi sẽ không đụng đến chai rượu này. Huynh hãy cứ xơi miếng
lợn rô ti to đùng này của tôi, còn rượu
của huynh, thì huynh cứ giữ lấy.”
Pilon nghiêm nghị đáp lời. “Danny, chia
rượu với huynh thì cũng được thôi, năm mươi năm mươi. Nghĩa vụ của tôi là phải
trông chừng huynh không được uống hết.”
Tới đó thì Danny bỏ dở đề tài. “Nơi quang quẻ này tôi sẽ nấu món thịt lợn,
còn huynh hãy nướng những chiếc bánh đường trong túi. Hãy đặt rượu của huynh chỗ
này, Pilon. Tốt hơn là ngay đây, để ta có thể nhìn thấy nó, và nhìn thấy nhau.”
Họ nhóm một đống lửa, nướng thịt nguội,
và ăn chỗ bánh mì cũ. Chai rượu mạnh nhanh chóng cạn. Ăn xong, họ ngồi quanh đống
lửa và nhấp nhấp cái chai như những con ong kiệt sức. Rồi sương buông lên người
họ, hơi ẩm làm áo khoác xám đi. Gió buồn bã thở dài trong rừng thông xung
quanh.
Một đỗi sau, một nỗi cô đơn choàng lấy
Danny và Pilon. Danny nhớ về những người bạn biệt tăm biệt tích.
“Giờ này Arthur Morales ở đâu?” Danny hỏi,
lật ngửa lòng bàn tay và chìa hai cánh tay về phía trước. “Chết ở Pháp rồi,”
chàng tự trả lời, lật úp hai lòng bàn tay lại và tuyệt vọng buông thõng hai
cánh tay. “Chết cho tổ quốc của chàng. Chết ở một vùng đất lạ. Khách lạ đi
ngang mồ chàng mà có hay đâu Arthur Morales nằm đó.” Chàng lại nhấc hai lòng
bàn tay thẳng lên trời. “Pablo ở đâu, con người tốt bụng đó?”
“Ở tù chứ ở đâu,” Pilon nói. “Pablo ăn cắp
một con ngỗng giấu trong bụi; rồi con ngỗng đó cắn Pablo nên cậu ta la lên và
thế là bị bắt. Bây giờ thì ngồi tù sáu tháng.”
Danny thở dài và đổi đề tài, vì chàng nhận
ra rằng chàng đã hoang phí mối quen biết duy nhất phù hợp cho màn diễn thuyết.
Nhưng nỗi cô đơn vẫn còn đầy ứ trong chàng đòi hỏi một lối ra. “Ta ngồi nơi
đây,” cuối cùng chàng bắt đầu.
“- lòng ta quắt quay,” Pilon nối vần.
“Không, đây không phải là một bài thơ,”
Danny nói. “Ta ngồi nơi đây, không nhà không cửa. Ta đã cống hiến đời ta cho tổ
quốc, mà giờ đây trên đầu ta chẳng có lấy một mái nhà.”
“Mà cũng chưa bao giờ có ,” Pilon láu táu
thêm vào.
Danny mơ màng uống cho tới lúc Pilon chạm
vào khuỷu tay chàng và lấy lại cái chai. “Chuyện ấy nhắc tôi nhớ,” Danny nói,
“câu chuyện một người có đến hai cái nhà thổ -” Chợt chàng há hốc miệng.
“Pilon!” chàng kêu lên. “Pilon! Con vịt úc núc nhỏ bé, người bạn bé bỏng của
tôi. Tôi quên phứt đi mất! Tôi chính là người thừa kế! Tôi có hai căn nhà.”
“Nhà thổ ư?” Pilon hỏi giọng tràn đầy hy
vọng. “Huynh là một tay nói dối say mèm,” chàng tiếp.
“Không phải, Pilon. Tôi nói thật đấy.
Ông cụ mất. Tôi là người thừa kế. Tôi, đứa cháu trai được yêu quý nhất.”
“Huynh là cháu trai duy nhất mà,” Pilon,
con người thực tế, nói. “Mấy căn nhà này ở đâu?”
“Huynh biết nhà ông cụ ở Tortilla Flat
không, Pilon?”
“Ở ngay vùng Monterey này sao?”
“Đúng rồi, ở đây, ngay Tortilla Flat.”
“Mấy căn nhà này còn ngon lành không?”
Danny rụt người lại, kiệt sức vì cảm xúc
dâng trào. “Tôi không biết nữa. Tôi quên là mình sở hữu chúng.”
Pilon ngồi lặng yên tiêu hóa tin này. Sắc
mặt chàng trở nên u ám. Chàng ném một nắm lá thông vào đống lửa, ngắm ngọn lửa
bùng lên nắm lá rồi lụi đi. Cả một hồi lâu chàng nhìn vào mặt Danny với vẻ âu
lo sâu sắc, và rồi Pilon thở dài rầm rĩ, rồi lại thở dài. “Giờ thì hết rồi,”
chàng buồn bã nói. “Giờ thì những quãng thời gian tươi đẹp đã hết. Bạn bè của
huynh sẽ than khóc, nhưng than khóc cũng chẳng ích gì.”
Danny đặt chai xuống, Pilon nhặt lên, đặt
nó trong lòng.
“Bây giờ thì cái gì đã hết?” Danny căn vặn.
“Huynh định nói gì?”
“Đây không phải là lần đầu,” Pilon tiếp
tục. “Lúc hàn vi người ta nghĩ, ‘Nếu có tiền mình sẽ chia sẻ với các bạn tốt của
mình.’ Nhưng khi có tiền thì từ tâm vỗ cánh bay đi. Huynh thì cũng thế thôi,
người-đã-từng-là-bạn của tôi ạ. Huynh được nâng lên cao hẳn so với bạn bè của
mình. Huynh là một người có tài sản. Huynh sẽ quên bằng hữu của mình, những người
từng chia sẻ mọi thứ cùng huynh, chia sẻ cả rượu mạnh của họ.”
Lời lẽ của Pilon làm Danny khó chịu.
“Tôi không phải thế,” chàng kêu lên. “Tôi sẽ không bao giờ quên huynh, Pilon ạ.”
“Giờ thì huynh nghĩ vậy,” Pilon lạnh lẽo
nói. “Nhưng khi huynh có hai căn nhà để ngủ, thì huynh sẽ thấy. Pilon sẽ chỉ là
một paisano kiết xác mà thôi, trong
khi huynh thì chè chén với ngài thị trưởng.”
Danny chếnh choáng đứng dậy, cố giữ cho
mình đứng thẳng bằng cách tựa vào một thân cây. “Pilon à, tôi thề, cái gì của
tôi cũng là của huynh. Khi tôi có một mái nhà, huynh cũng có một mái nhà. Cho
tôi một hớp.”
“Tôi phải thấy thì mới tin được,” Pilon
nói bằng giọng uể oải. “Nếu sự việc đúng như vậy thì đúng là một kỳ quan thế giới.
Người ta sẽ đi cả nghìn dặm để chiêm ngưỡng. Và ngoài ra thì, chai rỗng rồi.”
No comments:
Post a Comment