Wednesday, November 21, 2012

Thị trấn Tortilla Flat - Chương 2

Thị trấn Tortilla Flat
John Steinbeck
Người dịch: Lâm Vũ Thao 




Chương II

Bị quyến rũ bởi lòng tham địa vị, Pilon khước từ lòng hiếu khách của Danny như thế nào


Vị luật sư chia tay họ ở cổng ngôi nhà thứ hai rồi leo lên chiếc Ford của mình, chạy giật cục xuống dốc đồi để vào Monterey. 

Danny và Pilon đứng trước hàng rào gỗ không sơn phết trầm trồ ngắm nhìn tòa nhà, một căn nhà thâm thấp quét vôi trắng đã cũ, và các cửa sổ không rèm trống trơn đóng kín mít. Nhưng ở hiên nhà có một cội hoa hồng dại khá to, và mọc lẫn trong đám cỏ nơi sân trước là những bụi phong lữ đại tướng.
“Trong hai căn thì căn này oách hơn,” Pilon nói. “Nó to hơn căn kia.”

Danny cầm cái chìa khóa mới toe trên tay. Chàng nhón chân đi qua hàng hiên ọp ẹp và mở khóa cửa trước. Căn phòng chính vẫn giống như thời ông cụ còn sống ở đó. Tấm lịch hoa hồng đỏ năm 1906, dải lụa trên tường, với hình Fighting Bob Evans[1] đứng nhìn giữa các tầng của một chiến hạm, một bó hồng giấy được kết lại, những chuỗi ớt tỏi đầy bụi, cái bếp củi và cái ghế bấp bênh tơi tả.

Pilon thò đầu qua cửa. “Có những ba phòng,” chàng hổn hển nói, “lại còn một cái giường và một bếp lò. Ở đây ta sẽ vui vẻ, Danny.”

Danny thận trọng di chuyển vào bên trong nhà. Chàng hãy còn ký ức đắng nghét về ông cụ. Pilon phóng ra trước chàng, thẳng vào nhà bếp. “Bồn có vòi rửa này,” chàng kêu lên. Chàng xoay tay nắm. “Không có nước. Danny, huynh phải bảo công ty cấp nước mở nước lên.”

Họ đứng mỉm cười với nhau. Pilon nhận thấy nỗi âu lo về tài sản đang dồn về trên gương mặt Danny. Gương mặt ấy sẽ chẳng còn vô lo nữa trong cuộc đời. Danny sẽ không đập vỡ cửa sổ nữa vì giờ đây chàng có cửa sổ của riêng mình để đập. Pilon đã đúng - Danny đã lớn lên giữa các bằng hữu. Vai chàng đã gồng lên để chống đỡ những phức tạp của cuộc đời. Một tiếng kêu đau đớn buột ra khỏi chàng trước khi chàng vĩnh viễn rời bỏ cuộc sinh tồn xưa cũ và giản dị của mình.
“Pilon,” Danny buồn bã nói, “tôi ước chi huynh mới là người sở hữu và tôi có thể đến sống cùng huynh.”

Trong lúc Danny đi Monterey để kêu mở nước, Pilon đi lại vẩn vơ trong cái sân sau đầy cỏ rối. Đám cây ăn quả nơi đó khẳng khiu, đen đủi, già nua, bị bỏ hoang nên xương xẩu và gãy đổ. Vài cái chuồng gà giống như những túp lều nằm chỏng chơ trong đám cỏ, một đống đai thùng rỉ sét, một đống tro và một tấm đệm ướt sũng. Qua hàng rào Pilon nhìn vào sân nuôi gà của bà Morales; cân nhắc một chút, chàng khoét mấy cái lỗ ở hàng rào cho mấy con gà mái. “Lũ gà này sẽ thích dọn ổ đẻ trứng trong trong đám cỏ cao,” chàng suy nghĩ đầy thiện tâm. Rồi chàng nghĩ đến việc sẽ đặt một cái bẫy sập, đề phòng lũ gà trống cũng mò sang quấy rầy bọn gà mái khiến chúng bỏ ổ. “Chỗ này sẽ vui đây,” chàng lại nghĩ.

Từ Monterey, Danny bực tức trở về. “Cái công ty đó đòi tiền cọc,” chàng nói.
“Tiền cọc?”
“Ừ. Họ đòi ba đô la thì mới mở nước.”
“Ba đô la,” Pilon nghiêm nghị nói, “tức là ba ga lông rượu. Uống rượu xong, ta sẽ vay một xô nước của bà Morales hàng xóm là được”.
“Nhưng ta không có ba đô la để mua rượu.”
“Tôi biết,” Pilon nói. “Hay là chúng ta vay ít rượu của bà Morales.”


Buổi chiều trôi qua. “Ngày mai chúng ta giải quyết chuyện này,” Danny thông báo. “Ngày mai ta sẽ lau chùi. Còn huynh, Pilon, huynh sẽ cắt cỏ và ném rác xuống khe núi.”
“Cỏ ư?” Pilon hốt hoảng kêu lên. “ Không phải đám cỏ kia chứ.” Chàng giải thích với Danny lý thuyết của mình về lũ gà của bà Morales.

Danny đồng ý ngay tắp lự. “Bạn tôi ơi,” chàng nói, “tôi sung sướng khi huynh đến ở với tôi. Bây giờ, trong khi tôi kiếm ít củi, huynh phải xoay cái gì đó cho bữa tối nhé.”

Pilon, nhớ tới chai rượu mạnh của mình, nghĩ rằng chuyện này không công bằng. “Mình đang bắt đầu nợ nần hắn,” chàng cay đắng nghĩ. “Tự do của mình sẽ bị cắt phụp, Chẳng mấy chốc mình sẽ thành nô lệ vì cái căn nhà Do Thái này.” Nhưng chàng vẫn đi ra ngoài tìm gì đó cho bữa tối.

Cách hai dãy nhà, gần mép rừng thông, chàng bắt gặp một con gà trống ri choai đang bới bới trên đường. Nó đã đến cái tuổi choai choai khi giọng bắt đầu ồ ề, còn giò, cổ và ức đều trụi lủi. Có lẽ bởi vì chàng đang mải độ lượng nghĩ về mấy con gà mái của bà Morales, chú gà trống nhỏ này khơi dậy lòng cảm thông của Pilon. Chàng thong thả cuốc bộ về phía cánh rừng thông tối sẫm, con gà chạy trước mặt.

Pilon trầm ngâm, “Con gà trụi lủi bé nhỏ tội nghiệp. Mày hẳn phải lạnh lẽo biết bao trong buổi sáng tinh mơ, khi sương rơi và khí trời trở lạnh cùng với bình minh. Thượng đế nhân từ không phải lúc nào cũng quá tử tế với những loài thú nhỏ.” Đoạn chàng nghĩ, “Nơi đây mày tung tăng trên đường, chú gà bé nhỏ. Ngày nào đó một chiếc xe hơi cán mày; và nếu nó giết chết mày, thì ấy sẽ là điều tốt đẹp nhất có thể xảy ra. Có khi nó chỉ làm mày gãy chân hay cánh. Thì khi đó cả đời mày sẽ lê lết trong khốn khổ. Cuộc đời quá khắc nghiệt với mày, ôi con chim bé nhỏ.”

Chàng di chuyển chậm rãi và thận trọng. Thỉnh thoảng con gà muốn quay đầu lại, nhưng Pilon luôn luôn đứng chắn đầu. Cuối cùng nó biến mất vào cánh rừng thông, và Pilon thong thả theo sau.

Vinh quang thay cho linh hồn chàng vì phải nói rằng không có tiếng kêu đau đớn nào phát ra từ lùm cây ấy. Con gà đó, mà Pilon đã tiên tri có thể phải sống trong đau đớn, đã chết trong bình an, hay ít ra thì trong thinh lặng. Việc ấy cũng không phải là tôn vinh nhỏ tí nào đối với kỹ thuật bắt gà của Pilon.

Mười phút sau, từ khu rừng chàng hiện ra và đi ngược lại về phía nhà Danny. Chú gà trống nhỏ, đã được vặt lông và xé ra, được giấu rải rác trong các túi của chàng. Nếu có một quy tắc ứng xử mạnh mẽ hơn bất cứ quy tắc nào khác đối với Pilon, thì nó là thế này: Trong bất kỳ tình huống nào, không được mang lông, đầu hay chân gà về nhà, vì không có những thứ này thì gà không thể nào bị nhận dạng.


Buổi tối họ đốt một đống lửa trong bếp củi. Lửa bập bùng phả vào ống khói. Danny và Pilon, no nê, ấm áp và vui vẻ, ngồi trên những chiếc ghế bấp bênh nhẹ nhàng nhún tới nhún lui. Trong bữa ăn tối họ đã thắp một mẩu nến, nhưng lúc này chỉ có ánh sáng hắt ra từ các khe hở của bếp xua bóng tối trong phòng. Để cảnh tượng thêm hoàn hảo, mưa bắt đầu gõ lộp bộp trên mái. Chỉ vài giọt dột qua, nhằm vào những chỗ đằng nào cũng không có ai ngồi.
“Thế này, thật tốt,” Pilon nói. “Hãy nghĩ tới những đêm ta phải ngủ trong giá lạnh. Sống phải như thế này chứ.”
“Ừ, mà cũng lạ,” Danny nói. “Bao nhiêu năm tôi chẳng có nhà cửa gì. Giờ lại có những hai cái. Tôi không thể ngủ ở cả hai nhà.”

Pilon ghét sự lãng phí. “Cái sự này đúng là làm tôi bực bội. Sao huynh không cho thuê cái nhà bên kia,” chàng gợi ý.
Danny giậm chân lên sàn. “Pilon,” chàng kêu lên. “Sao tôi không nghĩ ra nhỉ?” Ý tưởng dần trở nên gần gũi hơn. “Nhưng ai chịu thuê hả Pilon?”
“Tôi thuê,” Pilon nói. “Tôi sẽ trả mười đô la một tháng.”
“Mười lăm,” Danny kiên quyết. “Căn nhà đó ngon lành. Đáng mười lăm đô đó.”

Pilon càu nhàu đồng ý. Nhưng chàng đã có thể đồng ý mức cao hơn nhiều, vì chàng đã nhìn thấy sự danh giá của một người sống trong nhà của riêng mình và Pilon muốn có sự danh giá ấy.
“Vậy là đồng ý rồi nhé,” Danny chốt hạ. “Huynh sẽ thuê nhà của tôi. Ôi, tôi sẽ là một chủ nhà tốt, Pilon ạ. Tôi sẽ không làm phiền huynh đâu.”

Trừ thời gian đi lính, Pilon chưa bao giờ có mười lăm đô la trong đời. Nhưng, chàng nghĩ, cả tháng nữa mới tới kỳ trả tiền thuê nhà, và ai mà biết được điều gì có thể xảy ra trong vòng một tháng.

Họ đung đưa trên ghế một cách mãn nguyện bên bếp lửa. Lát sau Danny đi ra ngoài một lúc rồi quay lại cầm theo mấy quả táo. “Đằng nào thì mưa cũng làm chúng hỏng,” chàng giải thích.

Pilon, không muốn kém, đứng dậy thắp nến; chàng đi vào phòng ngủ và một lúc sau mang ra chậu rửa và bình nước, hai bình thủy tinh đỏ và một bó lông đà điểu. “Không nên bày biện quá nhiều đồ dễ vỡ xung quanh,” chàng nói. “Khi chúng vỡ, ta sẽ buồn. Tốt hơn là đừng bao giờ có chúng.” Chàng bóc những bông hồng giấy khỏi tường. “Để tặng Señora[2] Torrelli,” chàng giải thích trong lúc đi ra cửa.

Chốc sau chàng quay lại, ướt lướt thướt vì mưa, nhưng hết sức đắc thắng vì chàng đã có một ga lông rượu vang đỏ trong tay.

Lát sau họ cãi nhau gay gắt, nhưng không ai quan tâm đến chuyện thắng thua  vì họ đã mệt nhoài với bao chuyện phấn khích trong ngày. Rượu vang làm họ chóng mặt, và họ lăn ra sàn mà ngủ. Lửa lụi dần; bếp lò kêu lích tích trong lúc nguội đi. Ngọn nến gục xuống rồi lụn đi trong chính đống sáp đã chảy ra, với những đốm lửa xanh lam nhỏ, leo lét. Căn nhà tối, yên ắng và thanh bình.




[1] Tức Dunglison Evans, đô đốc hải quân trong thời nội chiến Mỹ và chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha.
[2] Tiếng Tây Ban Nha, nghĩa là bà, cô.

No comments: